Phật giáo & vấn đề chống đói nghèo

NSGN -

Nghịchlý giàu nghèo ở những nước theo Phật giáo

Trước đây rấtlâu, từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phậtgiáo không biết làm giàu. Cụ thể trên tờ Viên Âm, cụ Tâm Minh phải phản bác lạiquan điểm cho rằng những nước theo Phật giáo đều nghèo. Ngay trong hàng ngũ cưsĩ Phật giáo, có người cho rằng vai trò phát triển kinh tế ở các Á châu nếu cólà vai trò của Khổng giáo hơn là Phật giáo. Tự hào về tinh thần quốc gia vàtruyền thống văn hóa có thể là động lực đánh thức mấy con rồng Á châu, và LýQuang Diệu từng dùng “giá trị Á châu” để biện minh cho những biện pháp cai trịbằng bàn tay sắt bọc nhung ở Singapore.

Vẻ đẹp của vương quốc Phật giáo Bhutan - đất nước hạnh phúc nhất thế giới

Theo GS.Cao Huy Thuần, Phật giáo chỉdành cho những người nào biết nghĩ đến mùa màng ngày mai, góp phần làm tươi tốtxã hội hơn là phát triển vật chất. Người ta quan niệm rằng kinh tế xã hội haykinh tế thị trường giống nhau ở chỗ là cả hai đều khuyến khích và cổ vũ tích luỹtài sản cá nhân hoặc quốc gia. Tham lam là điều tốt (Greed is good) và “mánhmung” là công bằng (Foul is fair)(1) là phương châm hành động. NhưSchumpeter khuyến cáo, những ai muốn bước qua ngưỡng cửa kinh tế phải bỏ lạitình nghĩa, đạo đức bên ngoài. Tôn giáo và đạo đức chỉ ngăn trở sự phát triểnkinh tế, chớ chẳng có ích lợi gì! Hơn nữa con người ít ai biết tri túc hay thiêủdục, hay quyết liệt hơn, diệt dục như trong đạo Phật. Thậm chí các nhà kinh tếcho rằng kinh tế Phật giáo là cụm từ gượng ép và lạc điệu(2). Trên bình diện quốc gia, các nướctheo Phật giáo như ba nước Đông Dương, Miến Điện, Tích Lan đều là những nướcnghèo. Kinh tế Thái Lan mới phát triển gần đây và kinh tế phát triển với cáigiá hy sinh phần nào đạo đức và phẩm hạnhphụ nữ, một hiện tượng mà cư sĩ lãnh đạophong trào nhập thế ở Thái, Sulak Sivaraksa, gọi là từ Hoa sen đến Bàn tay củaquỷ. Nhật Bản là nước giàu có từ sau thế chiến, nhờ đầu tư của Mỹ, và có ngươìcho rằng nhờ tinh thần quốc gia hun đúc từ Thần Đạo, còn Đại Hàn phát triển đượccó lẽ nhờ viện trợ Mỹ và trải qua nhiều thập niên dưới sự cai trị chuyên chếtheo kỷ luật quân sự, và có lẽ nhờ tinh thần tranh đua ráo riết với Nhật.

Đức Phật nói gì về một xã hội sung túc?

Đức Phật khôngphải là không để ý việc tạo dựng một xã hội sung túc. Trong kinh CakkavattiSihananda (Chuyển Luân Thánh vương sư tử hống, Trường bộ), Ðức Phật nói rằngsự hung ác và tội phạm, như ăn cắp, lường gạt, bạo lực, thù ghét, bạo tàn, v.v.đều bắt nguồn từ nghèo khó. Quốc vương và triều đình có thể dùng sự trừng phạtđể kiềm chế tội phạm, nhưng không bao giờ có thể tiêu trừ các tội phạm bằng quyềnlực của mình.

Trong kinh Kutadanta(Cứu-la-đàn-đầu, Trường bộ), Ðức Phật chủ trương phát triển kinh tế, thay vìdùng quyền lực, để xóa giảm tội phạm. Triều đình phải biết sử dụng các nguồntài nguyên để cải thiện điều kiện kinh tế trong nước. Họ phải biết phát triểnnông nghiệp ở thôn quê, trợ giúp giới buôn bán, cung cấp lương bổng đầy đủ chocông nhân để bảo đảm một đời sống tốt có nhân phẩm.

Trong kinh Bổnsanh (Jakata), Ðức Phật có đưa ra 10 nguyên tắc của một chính quyền tốt, gọilà “Thập vương pháp” (Dasa raja dhamma). Mười nguyên tắc này vẫn có thêả́p dụng trong thời đại ngày nay cho bất cứ một chính quyền nào, để quản trị xứsở một cách hài hòa. Ðó là:

1. Phải cởi mở và không ích kỷ;

2. Duy trì đạođức cao;

3. Sẵn sàng hysinh lợi ích cá nhân để phục vụ cho an sinh của dân chúng;

4. Phải thànhthật và ngay thẳng;

5. Phải dịudàng và giàu lòng nhân ái;

6. Phải sống giảndị để làm gương cho dân chúng;

7. Phải vượtlên trên mọi hận thù;

8. Biết áp dụngtinh thần bất bạo động;

9. Biết nhẫn nại;

10. Tôn trọng ýkiến dân chúng, và biết phát triển sự hòa bình và hòa hợp.

Nếu vị quốcvương ấy cai trị xấu, người dân sẽ than phiền rằng họ đang bị phá hoại bởi mộtvị lãnh đạo xấu vì các chính sách hà khắc, nhũng lạm, bất công, sưu cao thuế nặng,và do đó, dân chúng sẽ có phản ứng chống lại vị vua ấy. Ngược lại, nếu vị vuacai trị tốt, thì dân chúng sẽ chúc tụng: “Cầu xin cho quốc vương của chúng tôiđược trường thọ”.

Lời dạy của Ðức Phật về các bổn phận đạo đức củavua chúa để sử dụng công quyền, bảo đảm an sinh người dân, đã giúp cho vua A Dục(Asoka), vào thế kỷ III trước Tây lịch, cai trị đất nước. Ông đã sống và thựchành Chánh pháp cùng với tất cả mọi người dân trong triều đại của ông. Ông quảngbá chính sách bất bạo động đến các vương quốc lân cận, cam kết các thiện ý cuaổng, và gửi sứ giả đi khắp nơi để truyền bá thông điệp hòa bình và bất bạo động.Ông cổ võ sự ứng dụng của các nguyên tắc đạo đức trong xã hội, như chân thật, từbi, bác ái, bất bạo động, nhân từ, không hoang phí, không chiếm đoạt, và khônggây sát hại cho mọi loài vật. Ông khuyến khích tự do tôn giáo và bình đẳngtương kính giữa mọi đức tin. Ông thường du hành thuyết giảng đạo pháp đến ngươìdân ở tận thôn quê. Ông thiết lập các công trình công cộng như bệnh xá, cung cấpthuốc men, trồng cây gây rừng, đào giếng, các công trình thủy lợi, và nhà tạmtrú. Ông cũng đặc biệt ngăn cấm việc đối xử tàn ác với các loài thú vật.

Cóhay không một nền kinh tế Phật giáo?

Một nhà kinh têÁnh gốc Đức, Erns Friedric Schumacher, đã nhìn thấy tiềm năng của đạo Phậttrong phát triển kinh tế. Ông đã xuất bản tác phẩm “Small is Beautiful: AStudy of Economics as if People Mattered”(3).Có người mạnh dạn cho rằng đó là Tuyên ngôn kinh tế Phật giáo của người Phật tử.Schumacher nhấn mạnh rằng ông không phải là Phật tử và nói rằng tư tưởng của ĐứcPhật đã có sẵn, nên ông chỉ muốn rút ra một vài nguyên tắc để biện chính cho nhữngnhận xét của ông về trào lưu kinh tế hiện đại.

Schumacher cho rằng các nhà kinh tế thường bị mắcbệnh "mù lòa thần học" không chịu nhìn nhận là, ở phía sau mỗi mô thứchay lý thuyết kinh tế đều có giả định siêu hình, như ẩn dụ mà Gandhi đã dùngtrong khi đề cập đến chính trị. Siêu hình kinh tế cũng giống như con rắn quấnquanh mình chúng ta, muốn tránh cũng không tránh được. Đó cũng là lý do tại saoSchumacher nói Tây phương có thần học Tin Lành, nên họ có nền kinh tế tư bản.Còn các nước theo Phật giáo, lẽ ra cũng phải có một nền kinh tế tương ứng, lạicứ nhắm mắt chạy theo "đại thần chú" kinh tế thị trường. Thông thườngthể chế chính trị được nối kết với mô thức kinh tế: dân chủ-tư bản, xã hội chủnghĩa-kinh tế chỉ huy. Nhưng khi xét đến lịch sử kinh tế từ Marx đến Keynes,qua Samuelson, ngay cả đến các "tổ sư" kinh tế thị trường ở Đại họcChicago, chúng ta thấy sự liên hệ kinh tế-chính trị không đơn giản như vậy

Khi Wangchuck đăng quang quốc vương Bhutan và tuyênbố là ông quan tâm đến Tổng hạnh phúc quốc gia (GNH), nhiều người chế giễu vì tổngGNP của Bhutan chỉ là 2,7 tỷ USD. Tuy nhiên tờ Time số ngày 18 tháng 1năm 2005 cho biết tổ chức New Economic Foundation thúc đẩy việc thiết lập chỉ sôán lạc (Well-being index) gồm thêm những yếu tố khác như mức độ hài lòng, tin câỵvà tham dự của dân chúng vào các chánh sách công quyền. Thủ tướng Anh TonyBlair là người đầu tiên áp dụng chỉ số này. Phát ngôn viên của nhóm NEF cho biếtcác chính phủ Pháp, Đức, Hòa Lan cũng đang xem xét. Schumacher cho rằng chi phầnChánh mạng trong con đường Bát Chánh đạo là khởi điểm cho những suy nghĩ cuaổng về một mô thức kinh tế Phật giáo. Thời Đức Phật còn tại thế, kinh tế cònđơn giản, và Ngài đã khuyến cáo đệ tử không nên làm các nghề không chính đángnhư bán vũ khí, bán rượu và buôn người. Trong nhiều đoạn kinh khác, Đức Phậtcòn đưa các lời khuyên cụ thể làm thế nào để sống một cuộc đời thanh bạch hạnhphúc. Đức Phật xem tiện nghi vật chất chỉ là phương tiện để chúng ta có điều kiệntinh tấn trên con đường tu tập giải thoát tâm linh. Các nhà kinh tế biện chứngnhư Marx và giới thần học Tin Lành, hay các nhà kinh tế thị trường, cho rằng sựsung túc vật chất trong đời sống cá nhân hay quốc gia có thể đem đến hạnh phúccá nhân hay hòa bình thế giới. Theo đạo Phật khi thân tâm không an lạc, dù giàucó đến mức nào, chúng ta vẫn không cảm thấy hạnh phúc. Đời sống tại các nướcgiàu nhất hiện nay cho thấy rằng sự giàu có không đồng nghĩa với hạnh phúc. Nhữngnước có chỉ số an sinh cao nhất không phải là Mỹ, mà là Bhutan với GNP khá thấp,hay các quốc gia Bắc Âu và Tây Âu, trong đó GNP mỗi đầu người chỉ bằng 2/3 củaMỹ. Khi kinh tế định chế (Institutional economic) được các nhà kinh tế đề cập,nhiều ý tưởng của Schumacher về đạo đức, văn hóa và tôn giáo bắt đầu đóng vaitrò quan trọng trong phân tích hoạt động kinh tế. “Có những quốc gia ‘âm thầm’thực hiện lý tưởng xã hội như các quốc gia Bắc Âu và trong một chừng mực nàođó, hệ thống an sinh của các quốc gia Tây Âu, là những mô thức mà Việt Nam cóthể học hỏi và thực hiện "định hướng xã hội chủ nghĩa". Phát triểncho nước giàu dân mạnh là một điều cần phải làm trong hoàn cảnh toàn cầu hóa hiệnnay, nhưng sứ mệnh của nhà nước là "Công Bình Xã Hội". Cần phải cóchính sách để những người hiện còn sống với thu nhập 1, 2 hay 3 đồng đô-la Mỹ mộtngày, theo như định nghĩa người cùng đinh của Liên Hiệp Quốc, cải thiện thu nhậpnếu không cũng phải có một mạng lưới an sinh an toàn cho những thành phần này”(4).

Về vấn đề giảm thiểu nghèo đói

Để làm việc này, chúng ta cần xây dựng xã hội bềnvững. Như chúng tôi đã đề cập trong bài viết trước: cần phải phục hưng Phậtgiáo. Bởi lẽ: “Xã hội Phật giáo là một xã hội để phục vụ con người chứ khôngphải để bóc lột con người; một xã hội để giải phóng con người chứ không phải đểràng buộc con người; một xã hội đem lại sự diệt khổ chứ không tạo ra đau khổmiên trường; một xã hội giúp con người thực hiện Phật tâm của mình vượt rangoài các trở ngại chứ không phải để dồn con người vào sự hoại vong, không đườnggỡ. Xã hội, quan niệm theo tinh thần Phật giáo, phải giúp con người hướng lênvào tâm linh, tiến dần lên đến sự minh mẫn trong trí tuệ, sự hân hoan với thiệnpháp, với tự do trong tâm hồn, sự siêu thoát đối với cái vô thường trong cảnh giới(5).

Thế nên, một nền kinh tế theo chủ trương Phật giáotrước tiên phải lo giải quyết những nhu cầu căn bản, đói rét, cơm áo, bệnh tật,nhu cầu giáo dục, trường học và công ăn việc làm cho người dân. Đó là những điêùkiện tối thiểu cho sự giải phóng con người trong xã hội, tạo những điều kiện vậtchất của tự do tâm linh.

Nói cách khác,xã hội Phật giáo là xã hội theo nguyên lý Trung đạo. Nền kinh tế trong xã hôịđó buộc mỗi người làm việc theo chí hướng và khả năng, và đóng góp việc làm vàosự lợi ích chung. Nhưng ngược lại, nhà nước phải đảm bảo được cơm áo và nhữngđiều kiện cần thiết để sinh hoạt một cách đồng đều cho toàn thể. Nói cách khác,Trung đạo là con đường nhân bản. Trung đạo là con đường để phục vụ, để dẫn dắtcon người hướng lên trong tinh thần và trí tuệ.

Trung đạo khôngphải là một con đường đòi hỏi và khó khăn mà chỉ hướng đến một xã hội có một mứcsống tối thiểu mà xã hội văn minh phải thực hiện cho toàn dân. Trong cùng mộtnước, người dân ở một mảnh đất hoang lại cũng có quyền có một mức sống tối thiêủngang với người dân ở miền châu thổ phì nhiêu vì cả hai đều làm việc.

Thu hẹp bất bình đẳng

Vấn đề bất bìnhđẳng thu nhập dẫn đến bất bình đẳng trong xã hội là mối quan tâm lớn của nhiêùnước phát triển. Vì bất bình đẳng thu nhập sẽ dẫn đến các vấn đề của xã hội nhưtỷ lệ thất nghiệp tăng, tỷ lệ tội phạm tăng, năng suất lao động bình quân giảm…Vì vậy, nhiều nước đã cố gắng thực hiện giảm bất bình đẳng qua việc tiếp cậncác dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là giáo dục và y tế. Người nghèo được đảm bảocác điều kiện sống tối thiểu, và luôn có các quỹ an sinh xã hội hỗ trợ khi cầnthiết. Để sống một cuộc đời phát triển trọn vẹn cả thể xác-tâm linh, Phật giáohướng đến một nền kinh tế trong đó những người nào muốn làm việc sẽ có việclàm. Nhiều người nghĩ rằng mô thức kinh tế này chỉ là điều mơ ước viển vông, nhấtlà khi các nhà kinh tế tư bản thị trường cho rằng tỷ lệ thất nghiệp ‘lý tưởng’là từ 2% đến 5%. Để giữ an ninh xã hội, kinh tế an sinh sẽ được thiết lập đểgiúp đỡ những người cần được giúp đỡ. Để giữ mức quân bình hệ thống, nhà kinh tếJ.K. Galbraith(6) trong The AffluentSociety nói rằng mạng lưới an toàn là cách đền bù những người thất nghiệp đểhọ có thể hưởng được những thành quả của tăng trưởng kinh tế.

Một báo cáo củaOxfam năm 2017 cho biết, năm 2014 Việt Nam có 210 người siêu giàu (tài sản ròngtrên 30 triệu đô-la Mỹ), chiếm 12% GDP cả nước, và con số này sẽ tăng lên 403vào năm 2025. Báo cáo này cũng ví von rằng người giàu nhất Việt Nam có thu nhậpmột ngày bằng 10 năm thu nhập của người nghèo nhất, và với tài sản này, có thểđưa toàn bộ 13 triệu người nghèo thoát nghèo ngay tức khắc. Kết quả điều tra mứcsống hộ gia đình (VHLSS)(7) cho thấy rằngkhoảng cách về thu nhập giữa nhóm giàu với bốn nhóm còn lại (nghèo, cận nghèo,trung bình, cận giàu) đã tăng nhanh trong giai đoạn 2004-2014, tạo ra khoảngcách ngày càng lớn về thu nhập. Thậm chí một khảo sát của Oxfam vào năm 2016cho thấy khoảng cách này lên đến 21 lần, so với của VHLSS vào 2010 là 8,5 lần,và VHLSS vào 2012 là 9,4 lần.

Chúng ta hiểu rằng hố ngăn cách giàu-nghèo là vấn nạn chung của các nước tăngtrưởng nhanh. Trong cuốn sách Tư bản trong thế kỷ XXI(8) - vấn đề bất bình đẳng thu nhập, sự phân hoágiàu-nghèo thu hút ngày càng nhiều sự quan tâm của xã hội. Sự phân phối của cảilà một trong những chủ đề gây tranh cãi và thảo luận rộng rãi. Liệu rằng độngcơ của việc tích lũy tư bản tư nhân sẽkhông tránh khỏi việc tập trung vào tay một thiểu số như Marx hình dung vào thếkỷ XIX hay việc cân bằng các nguồn lực, sự cạnh tranh, và tiến bộ công nghệ sẽđưa thế giới đến một giai đoạn phát triển, giảm bớt bất bình đẳng và hòa hợphơn giữa các giai cấp như Simon Kuznets quan niệm trong thế kỷ XX? Bài học nàocó thể được rút ra từ tri thức của thế kỷ trước đang được chúng ta tiếp thu? Cónhững nan đề mà tác giả nỗ lực đưa racâu trả lời trong tác phẩm. Sự pháttriển kinh tế hiện đại và sự phổ biến tri thức khiến cho Chủ nghĩa Tư bản thoátkhỏi sự diệt vong như Marx tiên liệu nhưng nó cũng không thể chuyển đổi sâu xahệ thống tư bản và tình trạng bất bình đẳng. Làm thế nào để tránh tình trạng“bình quân mỗi người một con gà, nhưng một người có chín, chín người có một”.

Chúng ta có thểkết luận rằng: Chỉ trong một nền kinh tế Trung đạo thì những việc phi lý trongđời sống vật chất mới chấm dứt mà thôi:vì phương châm của Trung đạo là sự lao động tối thiểu đạt hiệu năng tối đa.

Nói cách khác,Trung đạo là con đường nhân bản. Trung đạo là con đường để phục vụ, để dẫn dắtcon người hướng lên trong tinh thần và trí tuệ. Nếu có một xã hội mà trong đóngười ta không những ít bị chướng ngại mà lại còn được giúp cho để tiến lêntrong Chánh đạo, thì phải là một xã hội xây dựng trên căn bản Trung đạo.

Những gì Đức Phậtnói là hướng đến tất cả mọi giới, và lời nói của Ngài nhằm vào việc dập tắt chiếntranh, ngăn cản bạo động, xóa bớt những bất công xã hội, đập vỡ nhưng hàng ràongăn cách giữa các thế cấp, chống tham nhũng và thất thoát, xây dựng tự do vàlà nền an ninh xã hội chung cho toàn thể. Nhưng khác với một số chủ nghĩa coithường tự do cá nhân, tự do là điều căn bản trong đạo Phật. “Đạo Phật là sự đi tìm cõi tự do tuyệt đối bằng một con đường lựa chọn trong tự docho toàn dân một cách đồng đều và công minh”.

Trên tinh thần ấy,chúng tôi thiết nghĩ những nhà kinh tế hay hoạch định chính sách hôm nay có thểtham khảo tinh thần Trung đạo của Phật giáo. Điều quan trọng là hướng về một cưúcánh nhân sinh, nhân quyền và nhân bản. Còn thì gọi kế sách ấy bằng tên gì cũngđược! Vấn đề là làm thế nào hiện thực hóa ước mơ hay dự phóng ấy!

Nguyên Cẩn

__________________

(1) Schumacher. E.F. Smallis Beautiful. A Study of Economics As If People Mattered. Randon House,Sydney, Australia, 1993.

(2) Quán Như Phan Văn Minh. Kinh tế Phật giáo, NXB. Văn Hóa-Văn Nghệ 2012.

(3) Schumacher. E.F. Smallis Beautiful. A Study of Economics As If People Mattered. Randon House,Sydney, Australia, 1993.

(4) Quán Như Phan VănMinh. Kinh tế Phật giáo, NXB. VănHóa-Văn Nghệ 2012.

(5) Trần Ngọc Ninh, ĐứcPhật giữa chúng ta, Lá Bối 1972.

(6) J.K. Galbraith. TheAffluent Society. Penguin Books, Victoria, Australia, 1958.

(7) Tổng cục Thống kê ,VietnamHousehold Living Standards survey (VHLSS), 2010.

(8) Thomas Piketty ( 2014), Capital in theTwenty-First Century, Belknap Press: An Imprint of Harvard UniversityPress; Reprint edition ( 2017).

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//nguyetsan/phatgiaovaxahoi/2019/07/01/5ef6c3/