Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Địa phương, doanh nghiệp phát huy vai trò chủ động
Cùng với nỗ lực hoàn thiện thể chế của Trung ương, các địa phương, doanh nghiệp đã tích cực triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, qua đó chủ động nắm bắt cơ hội phát triển công nghiệp hỗ trợ, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng.

Tọa đàm “Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Những bài học và định hướng” do Tạp chí Công Thương thực hiện được phát trực tuyến trên các nền tảng vào ngày 20/10/2025
Xác định rõ vai trò của ngành công nghiệp hỗ trợ, Chính phủ và các Bộ, ngành Việt Nam thời gian qua đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách quan trọng làm cơ sở để triển khai mạnh mẽ hơn nữa các chương trình, hoạt động khuyến khích, thu hút đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
Cùng với bệ đỡ chính sách, các địa phương, doanh nghiệp đã chủ động nắm bắt cơ hội phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Ở cấp địa phương, bà Đỗ Việt Hồng - Trưởng phòng Quản lý công nghiệp, Sở Công Thương TP. Đà Nẵng chia sẻ tại Tọa đàm “Thu hút đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ: Đòn bẩy từ chính sách” do Tạp chí Công Thương thực hiện, trên cơ sở Chính phủ ban hành Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 03 tháng 11 năm 2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ, về phía thành phố Đà Nẵng cũng đã có những bước triển khai nhanh chóng trong việc cụ thể hóa Nghị định số 111 của Chính phủ. Trong đó thành phố đã có chỉ đạo giao cho Sở cũng như triển khai tham mưu ban hành Nghị quyết đầu tiên về phát triển công nghiệp hỗ trợ đối với thành phố Đà Nẵng. Đó là Nghị quyết số 20/2016 ngày 11/8/2016 của Hội đồng nhân dân thành phố cũ quy định một số nội dung và mức kinh phí đầu tư hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ thành phố Đà Nẵng.
Đồng thời, về phía Ủy ban nhân dân thành phố cũng đã có Quyết định số 34/2016 ngày 11/11/2016 về chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ. Qua thời gian triển khai, còn tồn tại một số bất cập, chưa thống nhất về nội dung hỗ trợ giữa các chính sách của thành phố trong cùng một nội dung hỗ trợ nên doanh nghiệp khó tiếp cận được kinh phí hỗ trợ.

Bà Đỗ Việt Hồng - Trưởng phòng Quản lý công nghiệp, Sở Công Thương TP. Đà Nẵng
Trên cơ sở đó, Sở Công Thương đã tham mưu HĐND thành phố Đà Nẵng ban hành Nghị quyết số 206/2018/NQ-HĐND ngày 19/12/2018 của HĐND thành phố Đà Nẵng (cũ) về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 20/2016/NQ-HĐND ngày 11/8/2016 theo hướng điều chỉnh quy định mức hỗ trợ phù hợp với các chính sách liên quan khác của thành phố nội dung, cụ thể là hỗ trợ đầu tư máy móc thiết bị phục vụ phát triển sản xuất sản phẩm công nghiệp phụ trợ với số tiền 2 tỷ đồng và hỗ trợ cho khoảng 4 doanh nghiệp tham gia chương trình hỗ trợ của thành phố.
Phát triển công nghiệp hỗ trợ được Thành ủy chú trọng thực hiện, theo đó Thành ủy Đà Nẵng đã ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 30/10/2020 của Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng về "phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045" nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh để đẩy mạnh thu hút đầu tư các dự án công nghiệp quy mô lớn vào thành phố, nhất là các dự án thuộc các lĩnh vực thu hút đầu tư như: Công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện tử, cơ khí chế tạo máy móc thiết bị và các lĩnh vực sản xuất có giá trị gia tăng cao khác; ngày 17/12/2021, Hội đồng nhân dân TP. Đà Nẵng đã ban hành Nghị quyết số 53/2021/NQ-HĐND về quy định chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thay thế Nghị quyết số 20/2016/NQ-HĐND ngày 11/8/2016 và Nghị quyết số 206/2018/NQ-HĐND ngày 19/12/2018 theo hướng thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp/nhà đầu tư, nhất là doanh nghiệp trong nước quan tâm đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn thành phố với mức chi hỗ trợ cao hơn, điều kiện thụ hưởng thuận lợi hơn và danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được thụ hưởng chính sách được mở rộng hơn.

Sau khi hợp nhất Đà Nẵng - Quảng Nam, quy mô và tiềm lực công nghiệp của thành phố mới được mở rộng đáng kể với hệ thống 20 khu công nghiệp, 60 cụm công nghiệp, 2 khu kinh tế và 3 khu công nghệ thông tin tập trung. Ngoài ra, việc sáp nhập tỉnh cũng đã nâng vị trí trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ của thành phố Đà Nẵng, với sự có mặt của nhiều công ty lớn, trong đó nổi bật là Tập đoàn Công nghiệp Trường Hải - THACO INDUSTRIES. Một số doanh nghiệp quy mô lớn có khả năng tham gia chuỗi cung ứng của các tập đoàn FDI trong khu vực miền Trung (như Công ty TNHH UAC Việt Nam, Công ty TNHH Mabuchi Motor, Công ty TNHH Cơ khí Chu Lai - Trường Hải, Công ty TNHH Nhựa Chu Lai, Công ty TNHH MTV Panko Tam Thăng…). Đây là nền tảng quan trọng để Đà Nẵng phát triển công nghiệp hỗ trợ phục vụ công nghiệp công nghệ cao, hướng đến mục tiêu tăng trưởng hai con số trong những năm tới.
Bà Bùi Thị Hồng Hạnh - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, Giám đốc Công ty NC Network Việt Nam chia sẻ, thời gian qua, Hiệp hội đã tích cực tổ chức các chương trình đào tạo online, offline để chia sẻ về kỹ thuật, kết nối cung cầu; đẩy mạnh thu hút các nhà mua quốc tế; tổ chức hội thi tay nghề trong sinh viên.
"Hàng tháng chúng tôi đều có ít nhất 3 buổi thường xuyên để cho mọi người sẽ sinh hoạt theo chuyên đề ngành, hoặc kết nối chéo business-matching", bà Hạnh cho biết, thông tin thêm Hiệp hội sắp tới sẽ mở thêm phòng đại diện tại Nhật Bản để hỗ trợ, kết nối trực tiếp cho doanh nghiệp.
Đại diện khối doanh nghiệp sản xuất, ông Vũ Đăng Khoa - Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghiệp JK, chia sẻ kinh nghiệm gần 20 năm tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu trong lĩnh vực phụ tùng xe máy và ô tô. Theo ông, điều quan trọng với doanh nghiệp là xác định rõ "đích đến" trong chuỗi cung ứng, từ đó đầu tư công nghệ và tiêu chuẩn phù hợp.

Ông Vũ Đăng Khoa - Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghiệp JK
JK đã chủ động làm việc với bộ phận R&D, thiết kế của đối tác để giải quyết vấn đề kỹ thuật, qua đó giảm giá thành sản phẩm nhờ giải bài toán công nghệ, đặc biệt là dung sai sản phẩm.
Doanh nghiệp cũng đã "chịu chi" mời đối tác đến thăm nhà máy để sát thực tiễn sản xuất, nhờ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp và gia tăng cơ hội tham gia vào chuỗi giá trị.
Ông Khoa nhấn mạnh, để tận dụng cơ hội mở rộng thị trường, doanh nghiệp Việt không chỉ nên sản xuất từng linh kiện riêng lẻ mà cần hướng đến sản xuất cụm linh kiện để vừa giảm dung sai, vừa tăng giá trị sản phẩm. Thị trường trong nước vẫn còn dư địa lớn, song doanh nghiệp cần mạnh dạn nghĩ đến xuất khẩu, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.