Phát triển công nghiệp môi trường là nền tảng để đạt mục tiêu Net Zero 2050

Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều cơ hội và thách thức đan xen, công tác chuẩn bị Văn kiện Đại hội XIV của Đảng đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của xã hội. Một trong những nội dung được chú ý là việc thể chế hóa phát triển bền vững, chuyển đổi xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu.

 Bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai cần được tăng cường

Bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai cần được tăng cường

Không dàn trải hoặc chạy theo phong trào

Góp ý Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, tại phần IX "Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu", nêu mục tiêu "hướng tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050" và "phát triển mạnh ngành công nghiệp, dịch vụ môi trường", TS. Nguyễn Trọng Anh - Giảng viên Ngành Môi trường, Trường Đại học Lạc Hồng, tỉnh Đồng Nai - cho rằng: Mục tiêu Net Zero vào năm 2050 là hoàn toàn đúng hướng và phù hợp với các cam kết quốc tế. Tuy nhiên, để khả thi trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế, điều quan trọng nhất là ưu tiên đúng và triển khai theo lộ trình rõ ràng, thay vì dàn trải hoặc chạy theo phong trào.

TS. Nguyễn Trọng Anh - Giảng Viên Ngành Môi trường, Trường Đại học Lạc Hồng, tỉnh Đồng Nai - Ảnh: NVCC

TS. Nguyễn Trọng Anh - Giảng Viên Ngành Môi trường, Trường Đại học Lạc Hồng, tỉnh Đồng Nai - Ảnh: NVCC

Theo TS. Nguyễn Trọng Anh, muốn mục tiêu Net Zero khả thi, Việt Nam cần tập trung vào bốn nhóm giải pháp:

- Thứ nhất, cần sớm thiết lập quy định phát thải và thị trường carbon trong nước. Đây sẽ là công cụ then chốt giúp phân bổ gánh nặng giảm phát thải hợp lý giữa các địa phương, đồng thời tạo nguồn thu mới từ giao dịch tín chỉ carbon.

- Thứ hai, Nhà nước cần đầu tư tập trung vào các mục tiêu lớn mang tính then chốt như lưới điện thông minh, hệ thống xử lý và tái sử dụng chất thải vùng, các công cụ đo đạc và kiểm kê phát thải. Nếu thiếu những công cụ này, doanh nghiệp dù muốn đầu tư xanh cũng không có “đất” để làm.

- Thứ ba, về công nghệ, nên ứng dụng công nghệ phù hợp, không nhất thiết phải quá cao hoặc đắt đỏ. Việt Nam cần xây dựng danh mục công nghệ xanh vừa tầm với từng địa phương, doanh nghiệp; kèm cơ chế thử nghiệm để khuyến khích đổi mới.

- Thứ tư, muốn giảm phát thải mà không tạo áp lực lên ngân sách thì phải tận dụng tối đa chương trình tài chính khí hậu quốc tế. Những gói dự án quy mô lớn về năng lượng tái tạo, lưới điện, nông nghiệp carbon thấp… cần được chuẩn hóa để có thể tiếp cận các quỹ như GCF, JETP hay thị trường tín chỉ.

Ngoài ra, Việt Nam cần phát triển mạnh ngành công nghiệp và dịch vụ môi trường, đây là mảnh ghép quan trọng để chúng ta tự chủ về công nghệ. Hỗ trợ các công nghệ môi trường có khả năng xử lý nước - khí thải - chất thải - tuần hoàn - tạo năng lượng sinh khối. Xây dựng quy định bắt buộc tỷ lệ tái chế - tái sử dụng. Quan trọng là phát triển nguồn nhân lực môi trường chất lượng cao, tăng liên kết giữa các viện - trường - doanh nghiệp.

"Net Zero 2050 hoàn toàn khả thi nếu Việt Nam tập trung vào những lĩnh vực có tác động lớn, tận dụng nguồn lực quốc tế, và phát triển hệ sinh thái công nghiệp môi trường trong nước. Điều quan trọng là hành động đúng lúc, đúng trọng tâm và với sự phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương - địa phương - doanh nghiệp", TS. Nguyễn Trọng Anh nhấn mạnh.

Quan tâm đặc biệt đến chuyển đổi năng lượng ở địa phương

Ở phần IV của Dự thảo, Đảng xác định nhiệm vụ "đẩy mạnh chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, thích ứng với biến đổi khí hậu" là 1 trong 3 đột phá chiến lược về hạ tầng. TS. Nguyễn Trọng Anh đánh giá đây là một định hướng rất đúng đắn và kịp thời.

Việc đưa "chuyển đổi xanh và chuyển đổi năng lượng" vào nhóm đột phá hạ tầng cho thấy tư duy mới: hạ tầng hiện nay không chỉ là đường sá, sân bay, cảng biển, mà còn là hạ tầng năng lượng - môi trường - khí hậu như lưới điện thông minh, cơ sở xử lý chất thải, hệ thống đo đạc - kiểm kê phát thải, hay các nền tảng dữ liệu phục vụ kinh tế tuần hoàn.

Bảo vệ môi trường từ địa phương - lò đốt rác tại hộ gia đình tại xã Liên Hòa, tỉnh Phú Thọ

Bảo vệ môi trường từ địa phương - lò đốt rác tại hộ gia đình tại xã Liên Hòa, tỉnh Phú Thọ

Để nội dung này được thể chế hóa rõ ràng hơn trong giai đoạn 2026 - 2030, TS. Nguyễn Trọng Anh cho rằng: Cần ban hành Luật, Quy định về năng lượng trong đó có nêu rõ về vấn đề đầu tư năng lượng tái tạo. Ban hành kế hoạch cụ thể để xác định lộ trình cắt giảm điện than, phát triển năng lượng tái tạo, cơ chế lưu trữ năng lượng, cũng như vai trò của tư nhân trong đầu tư hạ tầng truyền tải. Khi có luật, quy định rõ ràng doanh nghiệp sẽ có niềm tin để đầu tư dài hạn, tránh tình trạng "dừng - chờ - xin".

Phải coi hạ tầng truyền tải là ưu tiên số 1. Hiện công suất năng lượng tái tạo có thể tăng rất nhanh, nhưng lưới điện phát triển không kịp khiến nhiều dự án bị "cắt giảm công suất" kéo dài. Chiến lược 2026 - 2030 nên cho phép xã hội hóa đầu tư truyền tải dưới sự quản lý của Nhà nước, đồng thời ưu tiên vốn công cho các tuyến lưới xương sống Bắc - Trung - Nam.

Và cần tích hợp cơ chế tài chính xanh ngay trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Điều này bao gồm: tín dụng ưu đãi cho năng lượng tái tạo; cơ chế hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA) để doanh nghiệp sử dụng điện sạch; và một hệ thống thị trường carbon vận hành thực chất chứ không chỉ thí điểm. Khi dòng tiền dịch chuyển đúng hướng, chuyển đổi năng lượng sẽ diễn ra nhanh và bền vững hơn.

Ngoài ra, TS. Nguyễn Trọng Anh cho rằng cần đặc biệt quan tâm đến chuyển đổi năng lượng ở cấp địa phương, nhất là các tỉnh có điều kiện hạn chế. Cần có bộ hướng dẫn kỹ thuật và danh mục công nghệ phù hợp, để họ không bị "bỏ lại phía sau" trong quá trình chuyển đổi xanh.

"Định hướng của Dự thảo là hoàn toàn xác đáng. Vấn đề quan trọng nhất trong giai đoạn 2026 - 2030 là thể chế hóa bằng luật, tháo điểm nghẽn hạ tầng truyền tải, và định hình dòng vốn xanh, từ đó tạo nền móng vững chắc cho mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050", TS. Nguyễn Trọng Anh nhấn mạnh.

Trong phần VIII "Quản lý phát triển xã hội bền vững", Dự thảo nhấn mạnh yêu cầu "phát triển kinh tế gắn với bảo vệ tài nguyên, môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu". TS. Nguyễn Trọng Anh cho rằng định hướng trong Dự thảo là hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển hiện nay. Tuy nhiên, để thực thi hiệu quả hơn, đặc biệt tại các khu công nghiệp và đô thị lớn, nơi vừa tạo ra giá trị kinh tế cao vừa đối mặt nhiều áp lực môi trường, cần tập trung vào ba điểm:

Thứ nhất, phải đặt trọng tâm vào quy hoạch đô thị và khu công nghiệp theo mô hình "phát triển gắn với hạ tầng môi trường", chứ không đi theo cách làm truyền thống "xây trước xử lý sau".

Thứ hai, đối với các khu công nghiệp, cần chuyển mạnh sang mô hình khu công nghiệp sinh thái - tuần hoàn.

Thứ ba, cần tăng cường khả năng chống chịu khí hậu của các đô thị lớn, đặc biệt là Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng và các đô thị ven biển. Ngoài ra, cần có cơ chế phối hợp vùng giữa các đô thị vệ tinh, bởi vấn đề môi trường - khí hậu không dừng lại ở ranh giới hành chính từng địa phương mà còn là vấn đề toàn quốc, quốc tế.

"Để phát triển kinh tế - đô thị gắn với môi trường một cách thực chất, Việt Nam phải thay đổi từ "quản lý sau sự vụ" sang quản lý dựa trên quy hoạch - công nghệ - tuần hoàn - chống chịu khí hậu. Khi đó, các khu công nghiệp và vùng đô thị không chỉ là động lực kinh tế mà còn trở thành các trung tâm phát triển xanh, bền vững và cạnh tranh quốc tế", TS. Nguyễn Trọng Anh góp ý.

Bài và ảnh: An Khê

Nguồn Phụ Nữ VN: https://phunuvietnam.vn/phat-trien-cong-nghiep-moi-truong-la-nen-tang-de-dat-muc-tieu-net-zero-2050-20251109153920657.htm