Phát triển đội ngũ giảng viên lĩnh vực công nghệ mũi nhọn còn khó, trường ĐH có kiến nghị

Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Quang, cần nghiên cứu, xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực ngành bán dẫn, vi mạch.

Một trong những nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là phát triển đội ngũ giảng viên, các nhà khoa học đủ năng lực, trình độ đáp ứng việc giảng dạy lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ chip bán dẫn, vi mạch và các công nghệ then chốt.

Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng nêu rõ việc đẩy mạnh hợp tác với các đại học uy tín của nước ngoài; đổi mới mạnh mẽ phương thức đào tạo và ứng dụng công nghệ tiên tiến, nhất là trí tuệ nhân tạo.

Theo đại diện một số cơ sở giáo dục đại học, để đạt được những mục tiêu này, ngoài việc tạo điều kiện cho giảng viên được tham gia sâu vào các dự án nghiên cứu – chuyển giao công nghệ, cần có quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực vi mạch bán dẫn.

Việc phát triển đội ngũ giảng dạy và hợp tác quốc tế ở những lĩnh vực mũi nhọn còn gặp khó khăn

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Quang - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp cho rằng, việc hợp tác với các đại học uy tín trên thế giới là con đường nhanh nhất để trường đại học của Việt Nam rút ngắn khoảng cách về đào tạo, nhưng trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều rào cản.

Trước hết, thủ tục hành chính, khung pháp lý cho việc đồng cấp bằng hoặc công nhận tín chỉ vẫn còn phức tạp, khiến việc hợp tác chưa linh hoạt. Về nguồn lực, nhiều trường đại học Việt Nam còn thiếu kinh phí để tham gia các chương trình hợp tác dài hạn.

Ngoài ra, sự khác biệt về chuẩn đào tạo, năng lực ngoại ngữ của một bộ phận giảng viên và sinh viên cùng với các hạn chế trong hạ tầng thí nghiệm – nghiên cứu là nguyên nhân khiến nhiều trường đại học nước ngoài còn cân nhắc trong việc mở rộng hợp tác chuyên sâu ở lĩnh vực công nghệ cao như công nghệ then chốt, bán dẫn, vi mạch với các trường đại học trong nước.

 Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Quang - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp. Ảnh: Lã Tiến

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Quang - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp. Ảnh: Lã Tiến

Cũng theo thầy Quang, việc phát triển đội ngũ giảng viên và nhà khoa học có đủ năng lực giảng dạy trong các lĩnh vực công nghệ chip bán dẫn, vi mạch và các công nghệ then chốt hiện nay tại trường đang gặp một số thách thức.

Trước hết, nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực này còn khan hiếm, trong khi môi trường đãi ngộ giữa cơ sở giáo dục công lập và khu vực doanh nghiệp có sự chênh lệch lớn. Doanh nghiệp có thể sẵn sàng trả mức lương cao gấp nhiều lần so với thu nhập của giảng viên đại học, khiến việc thu hút và giữ chân chuyên gia trở nên khó khăn.

Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, thiết bị nghiên cứu cho lĩnh vực này cũng đòi hỏi vốn đầu tư cao, trong khi nguồn lực của các trường đại học còn hạn chế. Việc đầu tư cho lĩnh vực bán dẫn, vi mạch cũng cần phải gắn kết chặt chẽ với thực tế sản xuất công nghiệp từ các doanh nghiệp điện tử, bán dẫn đang có và sắp đến đầu tư tại Việt Nam để đảm bảo đầu tư có sự tương thích và đồng bộ.

Thực tế, tại Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp, đội ngũ giảng viên trong lĩnh vực công nghệ chip bán dẫn, vi mạch và các công nghệ then chốt liên quan đến bán dẫn vẫn còn khá “mỏng”. Mặc dù tại trường đã có một số giảng viên được đào tạo ở nước ngoài hoặc tham gia các chương trình bồi dưỡng ngắn hạn, song số lượng này vẫn chưa nhiều. Hiện nay, trường vẫn đang nỗ lực để tiếp tục triển khai chương trình tuyển dụng và đào tạo bồi dưỡng chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ giảng dạy lĩnh vực này.

 Sinh viên Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp trong xưởng thực hành. Ảnh website nhà trường.

Sinh viên Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp trong xưởng thực hành. Ảnh website nhà trường.

Cùng bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Đinh Anh Tuấn - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Quy Nhơn cho rằng, rào cản trong hợp tác giữa trường đại học Việt Nam với các đại học uy tín của nước ngoài hiện nay nằm ở một số điểm sau.

Đầu tiên là sự hạn chế về nguồn lực tài chính và cơ sở hạ tầng nghiên cứu, khiến các trường đại học trong nước khó đáp ứng yêu cầu nâng tầm đối tác quốc tế trong lĩnh vực công nghệ mũi nhọn.

Tiếp đó, nguồn nhân lực chất lượng cao còn mỏng, khả năng sử dụng ngoại ngữ và năng lực nghiên cứu độc lập chưa đồng đều, dẫn đến khoảng cách lớn trong hợp tác.

Nếu chúng ta cải thiện mạnh mẽ những khâu này, thì việc hợp tác với các đại học hàng đầu thế giới trong đào tạo và nghiên cứu về khoa học cơ bản, công nghệ chip, vi mạch và các công nghệ then chốt sẽ trở nên thực chất và bền vững hơn.

 Tiến sĩ Đinh Anh Tuấn - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Quy Nhơn. Ảnh website nhà trường

Tiến sĩ Đinh Anh Tuấn - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Quy Nhơn. Ảnh website nhà trường

Theo thầy Tuấn, hiện đội ngũ giảng viên của trường có 1 giáo sư; 36 phó giáo sư; 218 tiến sĩ; 308 thạc sĩ. Tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trở lên của trường đạt 51,2%. Đây là nền tảng để nhà trường có thể phát triển các ngành kỹ thuật và khoa học cơ bản.

Về đội ngũ giảng viên trong các lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ chip bán dẫn, vi mạch và các công nghệ then chốt, trường có 13 tiến sĩ, 2 thạc sĩ là giảng viên cơ hữu tham gia giảng dạy mảng điện tử viễn thông - thiết kế vi mạch tại Khoa Kỹ thuật và Công nghệ; 25 giảng viên cơ hữu, trong đó có 1 giáo sư, 10 phó giáo sư, 11 tiến sĩ và 3 thạc sĩ đang giảng dạy tại Khoa Khoa học Tự nhiên; 10 tiến sĩ, 15 thạc sĩ cơ hữu tham gia giảng dạy tại Khoa Công nghệ thông tin.

Tuy nhiên, hiện trường còn gặp một số khó khăn cơ bản khi phát triển đội ngũ giảng viên, nhà khoa học đủ năng lực nghiên cứu, giảng dạy trong các lĩnh vực này.

Trước hết, hạn chế về nhân lực chuyên sâu, nhất là ở trình độ nghiên cứu - công nghiệp bán dẫn được đào tạo bài bản ở nước ngoài. Bởi công nghệ bán dẫn và sản xuất vi mạch yêu cầu kinh nghiệm thực tế trong môi trường tiên tiến, đặc biệt là ở các trường quốc tế.

Cùng với đó, cơ sở vật chất chuyên dụng và trang thiết bị có chi phí đầu tư lớn. Ngành bán dẫn, vi mạch đòi hỏi phòng thí nghiệm chuyên sâu như: máy mô phỏng thiết kế, phòng lab, thiết bị đo kiểm,... nếu hướng tới chế tạo, yêu cầu đối với thiết bị phòng sạch rất cao, cần đầu tư với mức kinh phí lên tới hàng trăm tỷ đồng.

Bên cạnh đó, hệ sinh thái công nghiệp – học thuật liên kết ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên hiện còn non trẻ. Để đào tạo gắn với thực tế sản xuất bán dẫn cần chuỗi doanh nghiệp sản xuất, thiết kế, đóng gói, kiểm thử và các trung tâm R&D đủ mạnh. Trong khi đó, hiện ở nhiều tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, hệ sinh thái này đang được xây dựng và cần thời gian để hình thành, dẫn tới khó khăn cho các giảng viên nghiên cứu, ứng dụng thực tiễn.

Trường đại học cần quyết liệt đổi mới để theo kịp sự phát triển của giáo dục đại học toàn cầu

Cũng theo thầy Tuấn, bên cạnh sự nỗ lực nội tại của trường đại học, để thu hút và giữ chân giảng viên, nhà nghiên cứu giỏi trong khoa học cơ bản, công nghệ chip bán dẫn, vi mạch và các công nghệ then chốt, Việt Nam cần triển khai đồng bộ một số chính sách chiến lược.

Việc xây dựng cơ chế đãi ngộ cạnh tranh, gắn thu nhập với năng lực và kết quả nghiên cứu là yêu cầu tiên quyết. Đồng thời, cần đầu tư xây dựng môi trường học thuật hiện đại, phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế để giảng viên có điều kiện phát huy năng lực. Mặt khác, mở rộng cơ hội hợp tác quốc tế, trao đổi học thuật, qua đó giúp các nhà khoa học duy trì sự kết nối và phát triển tri thức toàn cầu.

Ngoài ra, cần có cơ chế trọng dụng nhân tài minh bạch, khuyến khích sáng tạo và bảo đảm phát triển nghề nghiệp bền vững. Đây là nền tảng để Việt Nam hình thành và phát triển đội ngũ trí thức khoa học công nghệ chất lượng cao, đóng góp trực tiếp cho các ngành công nghệ mũi nhọn trong tương lai.

Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Quy Nhơn bày tỏ, nếu muốn rút ngắn khoảng cách về đào tạo với các đại học nước ngoài, đặc biệt trong bối cảnh công nghệ, trí tuệ nhân tạo đang được ứng dụng mạnh mẽ vào giảng dạy, cơ sở giáo dục đại học Việt Nam cần chú trọng phát triển đội ngũ giảng viên và đầu tư cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm hiện đại.

Đối với phát triển đội ngũ, cần có chính sách ưu đãi, cử giảng viên tham gia các chương trình bồi dưỡng nhanh (upskilling), bootcamps ngắn hạn về AI, sư phạm số, thiết kế bài học theo competency, hướng dẫn project supervision. Xây dựng các chính sách giảm tải giảng dạy cho nghiên cứu và liên kết công nghiệp, tạo điều kiện nghỉ phép, tài trợ đi thực tập hoặc cùng làm ở doanh nghiệp theo mô hình kết nối 3 nhà “Nhà nước – Nhà trường – Nhà doanh nghiệp”. Ngoài ra, nên mời chuyên gia trong và ngoài nước để hướng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy.

Về hạ tầng phòng thí nghiệm, trường đại học nên liên kết với doanh nghiệp đầu ngành để cung cấp đề tài, dữ liệu thực tế, đồng giám sát luận văn, hỗ trợ tài trợ thiết bị hoặc thông qua chính quyền địa phương để tận dụng nguồn lực sẵn có.

Thầy Tuấn cũng cho biết thêm, đối với Trường Đại học Quy Nhơn, hiện tại nhà trường được Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai hỗ trợ 100 tỷ đồng cùng vốn đối ứng 20 tỷ đồng của nhà trường để phát triển phòng thí nghiệm bán dẫn.

 Trường Đại học Quy Nhơn nỗ lực đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong các lĩnh vực công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo. Ảnh website nhà trường.

Trường Đại học Quy Nhơn nỗ lực đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong các lĩnh vực công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo. Ảnh website nhà trường.

Trong khi đó, trước những khó khăn của việc thu hút và giữ chân đội ngũ giảng viên, nhà khoa học trong lĩnh vực bán dẫn, theo thầy Nguyễn Hữu Quang, Việt Nam cần có cơ chế đặc thù đối với những lĩnh vực này.

Cụ thể, cần có chính sách tiền lương và đãi ngộ tương xứng, tiệm cận với mức mà doanh nghiệp trong ngành có thể trả, để giảng viên không rời bỏ môi trường đại học.

Song song với đó, tạo điều kiện cho giảng viên được tham gia sâu vào các dự án nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, để họ vừa có thu nhập bổ sung, vừa được cọ xát thực tiễn. Chính phủ và các bộ ngành cũng cần nghiên cứu, xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực bán dẫn, vi mạch. Đồng thời, cấp học bổng tiến sĩ, sau tiến sĩ ở các đại học uy tín trên thế giới gắn liền với cam kết trở về phục vụ cho cơ sở giáo dục trong nước.

Thầy Quang nhấn mạnh, việc đổi mới chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế và hiện đại hóa phương thức đào tạo là xu hướng tất yếu của trường đại học trong bối cảnh hiện nay. Nếu không quyết liệt đổi mới, các trường đại học trong nước sẽ khó theo kịp sự phát triển của giáo dục đại học toàn cầu, đặc biệt trong những lĩnh vực công nghệ mũi nhọn như: trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, vi mạch hay công nghệ then chốt. Song để thực hiện được các mục tiêu này, cơ sở giáo dục đại học Việt Nam cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp.

Thứ nhất, cập nhật chương trình đào tạo, bám sát nhu cầu thực tiễn của ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu, mời chuyên gia nước ngoài tham gia xây dựng chương trình, áp dụng mô hình chuẩn khu vực và quốc tế.

Thứ hai, tăng cường ứng dụng công nghệ và AI trong giảng dạy. Khai thác các nền tảng mô phỏng, phòng thí nghiệm ảo, trí tuệ nhân tạo để bù đắp hạn chế về hạ tầng cơ sở vật chất.

Thứ ba, đẩy mạnh hợp tác doanh nghiệp – trường đại học. Xây dựng các trung tâm nghiên cứu, thực hành ngay trong doanh nghiệp để sinh viên được học trong môi trường gắn liền sản xuất.

Thứ tư, nâng cao năng lực ngoại ngữ và kỹ năng số cho giảng viên và sinh viên. Đây là yếu tố quyết định để giảng viên và sinh viên tự tin tham gia mạng lưới học thuật và dự án quốc tế.

Mạnh Dũng

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/phat-trien-doi-ngu-giang-vien-linh-vuc-cong-nghe-mui-nhon-con-kho-truong-dh-co-kien-nghi-post255055.gd