Phát triển nguồn năng lượng xanh từ điện gió ngoài khơi tại Việt Nam
Hình ảnh những cánh quạt gió hiên ngang ngoài Biển Đông, chạy dọc theo đường cong chữ S của đất nước, sẽ không chỉ là biểu tượng cho năng lượng sạch mà còn như một 'phên dậu' vững chắc bảo vệ lãnh hải Tổ quốc.

Hệ thống điện gió tại Tuy Phong, Bình Thuận. (Nguồn: SGGP)
Theo đánh giá mới đây của Ngân hàng Thế giới (World Bank), tiềm năng điện gió ngoài khơi (ĐGNK) của Việt Nam ước tính khoảng 600 GW. Nguồn năng lượng này có thể đóng góp tới 12% tổng sản lượng điện quốc gia vào năm 2035 nếu được khai thác hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh triển vọng to lớn, hành trình phát triển ĐGNK ở Việt Nam vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn, đòi hỏi sự quyết liệt trong hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế chính sách và tổ chức thực thi.
Tiềm năng khổng lồ
Tại một hội thảo quốc tế ở Hà Nội vào tháng 6/2025, World Bank đã khuyến cáo Việt Nam nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý và thể chế cho phát triển ĐGNK, đặc biệt ở bốn lĩnh vực: quy hoạch không gian biển; cơ chế cấp phép, đấu thầu rõ ràng; biểu giá mua bán điện minh bạch và đẩy nhanh các khảo sát sơ cấp, bao gồm đo gió, địa chất đáy biển, cũng như đánh giá tác động môi trường-xã hội tại các vùng quy hoạch.
Ngành ĐGNK trên toàn cầu hiện đóng vai trò then chốt trong chiến lược năng lượng tái tạo và giảm phát thải CO₂. Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó nhờ khả năng sản xuất điện ở quy mô rất lớn. Song, đến nay, nhiều dự án vẫn chỉ dừng ở mức ghi nhớ hợp tác (MoU), chưa thể tiến tới triển khai thực tế.
Có thể lấy tháng 12/1993 làm khởi điểm, khi khái niệm "điện gió" hay "tuabin gió" còn xa lạ với số đông, chỉ lác đác xuất hiện trên báo chí. Đến khoảng năm 2008, những hệ thống cánh quạt gió công suất tính bằng MW đầu tiên được đưa về Việt Nam.
Cụ thể, năm hệ thống cánh quạt gió công suất thiết kế 1,5 MW từ CHLB Đức được vận chuyển về Tuy Phong (Bình Thuận). Sau đó, thêm 15 hệ thống nữa của hãng Fuhrländer (Đức) tiếp tục được lắp đặt và đến nay cả 20 hệ thống vẫn hoạt động ổn định, hòa lưới điện quốc gia từ tháng 10/2011.
Cùng thời gian, ba hệ thống tuabin gió công suất 2 MW của Vestas (Đan Mạch) được đưa ra đảo Phú Quý, kết hợp với máy phát diesel để cung cấp điện cho người dân. Thêm 12 tuabin khác của Vestas cũng được triển khai tại Phú Lạc (Tuy Phong).
Phải khẳng định ngành ĐGVN đã có bước tiến vượt trội. Tính đến nay trên toàn lãnh thổ Việt Nam đã có gần 100 đề án ĐGVN đã được lắp ráp, xây dựng xong và đưa vào vận hành, đóng góp không nhỏ vào thành quả phát triển ngành năng lượng tái tạo Việt Nam.
Lợi thế và thách thức
Các chuyên gia trong và ngoài nước đều nhận định ĐGNK có nhiều đặc điểm nổi bật.
Về kinh tế – tài chính, một dự án thường mất 6–7 năm để quy hoạch, thiết kế và xây dựng với vốn đầu tư khổng lồ lên tới hàng tỷ USD. Tuy nhiên, tiềm năng phát triển rất lớn nhờ diện tích mặt biển rộng, gió ổn định, công suất tuabin có thể đạt 16–18 MW, quy mô dự án tới vài GW.
Về môi trường-xã hội, ĐGNK có nhiều lợi thế: ít tác động tiêu cực đến môi trường, không gây xung đột giải phóng mặt bằng hay tiếng ồn, không ảnh hưởng đến đời sống dân cư ven biển. Thế nhưng, thách thức lớn lại nằm ở chuỗi cung ứng và hậu cần ngoài khơi vốn phức tạp, đòi hỏi sự cam kết lâu dài của Chính phủ cũng như cơ sở hạ tầng đồng bộ để phục vụ lắp đặt và bảo trì.
Nhìn vào các mục tiêu và lộ trình do cơ quan trách nhiệm đưa ra, phải khẳng định công cuộc phát triển và xây dựng ĐGNK còn nhiều khó khăn và bất cập. Chính phủ, các Bộ, cơ quan trách nhiệm trực tiếp nên nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách ưu đãi nhằm để khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân, nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Mô hình phát triển hệ thống điện gió. (Ảnh: TGCC)
Tháo gỡ điểm nghẽn
Thực tế, tính đến thời điểm tháng 8–9/2025, tiến trình phát triển ĐGNK tại Việt Nam vẫn còn nhiều vướng mắc về cơ chế chính sách khiến nhà đầu tư khó yên tâm.
Để tháo gỡ, Chính phủ và các bộ ngành cần khẩn trương ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư; phân công rõ trách nhiệm cho các đơn vị chủ lực như EVN, PVN, PTSC; đồng thời thiết lập một "nhạc trưởng" đủ tầm vóc để điều phối và chỉ đạo thống nhất toàn bộ lĩnh vực này. Chỉ khi có cơ chế minh bạch, công bằng, Việt Nam mới có thể tạo dựng niềm tin và thu hút các "đại bàng" quốc tế.
Đẩy mạnh phát triển và xây dựng ngành Điện gió ngoài khơi bền vững ngành ĐGNK không chỉ góp phần bảo đảm an ninh năng lượng mà còn là yếu tố quan trọng trong bảo vệ chủ quyền biển đảo.
(*)Chuyên gia cao cấp Năng lượng tái tạo và Bảo vệ môi trường