Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho định hướng phát triển kinh tế mới:Xây dựng chiến lược quốc gia và đầu tư trọng điểm, xứng tầm
Trong bối cảnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hội nhập sâu rộng, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ là một yêu cầu tất yếu, mà còn là một trụ cột chiến lược bảo đảm năng lực cạnh tranh và khả năng tự chủ phát triển của quốc gia. Vì vậy, cần có chiến lược quốc gia và đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, xứng tầm.
Giám đốc Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, PGS.TS ĐẶNG HOÀI BẮC:
Kiến tạo hệ sinh thái phát triển con người
Những gì các quốc gia đi trước đã thực hiện cho thấy, để tạo đột phá, cần cách tiếp cận mới, không chỉ là đào tạo, mà là kiến tạo một hệ sinh thái phát triển con người, nơi chính sách, nguồn lực, công nghệ và sáng tạo cùng hội tụ.

PGS.TS Đặng Hoài Bắc - Giám đốc Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông. Ảnh: Quang Khánh
Việt Nam cũng đang đứng trước cơ hội lớn để thực hiện điều đó, nếu chúng ta quyết tâm tháo gỡ các nút thắt về thể chế, đầu tư đúng trọng tâm và tạo điều kiện để các chủ thể có năng lực được phát huy vai trò. Các trường đại học - đặc biệt là những cơ sở đào tạo chuyên sâu về công nghệ - cần được nhìn nhận không chỉ là nơi đào tạo mà còn là trung tâm đổi mới, kết nối thị trường nhân lực với hệ sinh thái công nghệ và doanh nghiệp. Sự đầu tư đúng mức cho những đơn vị này sẽ là khoản đầu tư cho tương lai của đất nước.
Ngoài việc thu hút các chuyên gia giỏi trong giai đoạn ngắn hạn, về lâu dài chúng ta phải có chiến lược đào tạo, phát triển các chuyên gia cao cấp của Việt Nam tiệm cận thế giới, giống như việc quy hoạch cán bộ quản lý cấp chiến lược quốc gia. Thí điểm một số mô hình đào tạo mới, phát hiện nhân tài thông qua “Learn by Project”, học kỳ doanh nghiệp; các CEO, CTO (Giám đốc quản lý Công nghệ) trở thành giảng viên mời của trường đại học.
Xây dựng cơ chế khuyến khích để 30% giảng viên đại học gắn với doanh nghiệp, hoặc tự khởi nghiệp để nắm được nhu cầu thực tế; thí điểm mô hình các chuyên gia giỏi từ doanh nghiệp có tối thiểu 1 ngày tham gia hoạt động giảng dạy nghiên cứu tại trường đại học, giảng viên đại học (ưu tiên giảng viên trẻ) có tối thiểu 2 ngày tham gia các dự án công việc tại doanh nghiệp.
Chúng ta cũng cần có chiến lược xuất khẩu tri thức, xuất khẩu công nghệ Việt Nam ra toàn cầu. Đến năm 2035 sẽ phải có các nhân sự cấp cao người Việt tại các BigTech, các trường Top 100 thế giới; các công ty công nghệ, các giải pháp sản phẩm công nghệ Việt Nam phải xuất hiện và thành công tại một số quốc gia.
Hiệu trưởng Đại học Phenikaa, GS.TS PHẠM THÀNH HUY:
Bài học phát triển nhân lực AI từ Trung Quốc
Đến ngày 31/12/2024, đã có 1/3 công bố nghiên cứu về AI trên toàn cầu, tức là hơn 30% công bố, đến từ Trung Quốc và 5/10 mô hình về ngôn ngữ lớn có sức cạnh tranh nhất thế giới cũng đến từ Trung Quốc. Hệ sinh thái nhân lực AI của Trung Quốc đã vượt qua một triệu người, trải rộng từ nghiên cứu cơ bản đến nghiên cứu ứng dụng và gắn kết cả kỹ thuật và quản trị. Nghiên cứu trường hợp Trung Quốc có thể rút ra một số bài học.

GS.TS Phạm Thành Huy - Hiệu trưởng Đại học Phenikaa. Ảnh: Quang Khánh
Thứ nhất, để có nguồn nhân lực đầy đủ cho hệ sinh thái nhân lực AI hiện nay, từ năm 2015, Trung Quốc đã ban hành Chiến lược AI quốc gia, đặt mục tiêu tới năm 2030 trở thành trung tâm AI toàn cầu. Và để làm được điều này, Trung Quốc đã có một nghiên cứu, dự báo kế hoạch với tầm nhìn khoảng 20 năm, trong đó xác định AI không chỉ là một công nghệ mà là một hạ tầng cơ bản mới và áp dụng cho mọi ngành. Chính phủ gắn phát triển AI với phát triển nguồn nhân lực như một chiến lược xuyên suốt. Như vậy, dự báo không chỉ về công nghệ mà cả các kỹ năng, cơ cấu nguồn nhân lực và hệ sinh thái học thuật, công nghiệp đi kèm.
Thứ hai, để bảo đảm đội ngũ phát triển AI, Trung Quốc đã tiến hành đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo theo hướng AI hóa toàn diện và tích hợp AI vào mọi cấp học. Đến thời điểm này, Trung Quốc có 345 trường đại học có chuyên ngành AI, trong đó có các chương trình AI liên ngành, như AI y học, AI kỹ thuật, AI pháp luật và AI kinh tế, quản lý; xây dựng các đại học trọng điểm về AI như Đại học Tứ Xuyên, Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa và thành lập Viện AI độc lập với chương trình đào tạo từ cử nhân đến tiến sĩ… AI không dạy như một môn học đơn lẻ mà được tích hợp như một nền tảng tri thức liên ngành.
Thứ ba, sự kết nối giữa doanh nghiệp, đại học và Nhà nước trong đào tạo. Dưới sự định hướng của Chính phủ Trung Quốc, tất cả doanh nghiệp lớn đều có chương trình đồng thiết kế, đồng giảng dạy với các đại học. Các đại học thì triển khai các chương trình học kỳ trong doanh nghiệp với thời gian thực tập 6 - 12 tháng tại doanh nghiệp. Doanh nghiệp không chỉ tuyển dụng mà phải tham gia vào đào tạo; trường đại học không chỉ dạy lý thuyết mà phải chạy cùng tốc độ và phải đổi mới, bảo đảm tốc độ phát triển của ngành, của công nghệ. Đây là chính là cách đưa trí tuệ từ đại học vào doanh nghiệp và ngược lại, các vấn đề mới của công nghiệp, yêu cầu của thực tiễn sẽ được đưa vào đại học.
Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, PGS. TS LÊ HUY HOÀNG:
Giáo dục hướng nghiệp quyết liệt và thực chất
Nghị quyết số 19 -NQ/TW về nông nghiệp, nông dân và nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng. Chính phủ cũng đã có Nghị quyết số 26 ban hành chương trình hành động.
Tuy nhiên, trong chương trình hành động của Chính phủ tập trung nhiều vào giáo dục nghề nghiệp, vì gắn với nông nghiệp và nông thôn liên quan đến đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Trong khi đó, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn gắn với nông nghiệp hiện đại, lâm nghiệp, thủy sản ứng dụng công nghệ cao, đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ đại học, sau đại học; và nhu cầu nguồn nhân lực này trong thực tiễn rất lớn.

PGS. TS Lê Huy Hoàng, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương. Ảnh: Quang Khánh
Tuy nhiên, những năm vừa qua, tất cả các trường đại học có đào tạo liên quan đến nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đều không đạt chỉ tiêu tuyển sinh, thậm chí cả những ngành nông nghiệp công nghệ cao. Tỷ lệ tuyển sinh được so với chỉ tiêu chỉ khoảng 10 - 20%. Nếu tình trạng này diễn ra thời gian dài, thì nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực đó sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Do đó, cần có chính sách đầu tư cho các trường liên quan đến nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản và có chính sách để thu hút sinh viên theo học các ngành đó.
Về vai trò của giáo dục phổ thông trong chuẩn bị đầu vào cho giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp, thực tế, sự chuẩn bị ở phổ thông, đặc biệt là giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp càng kỹ bao nhiêu thì chất lượng đầu vào của các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp càng tốt bấy nhiêu; đồng thời tác động đến cơ cấu lựa chọn ngành nghề. Các em có thể học giỏi ở phổ thông nhưng lựa chọn không đúng nghề thì sẽ không thành công. Các em không thành công thì định hướng chiến lược của chúng ta về nguồn nhân lực cũng không thành công.
Vì vậy, một trong những từ khóa rất quan trọng giai đoạn tới là giáo dục hướng nghiệp. Chúng ta phải thực hiện giáo dục hướng nghiệp một cách quyết liệt và thực chất ở bậc phổ thông.