Phát triển tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai tại Đại học Kinh tế Quốc dân
Theo các chuyên gia, nhà giáo dục, để tiếng Anh thực sự trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, cần tạo dựng được môi trường sử dụng tiếng Anh thực chất và liên tục, giúp sinh viên rèn luyện toàn diện các kỹ năng Nghe - Nói - Đọc - Viết.
Ngày 29/5, Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức chương trình “Phát triển tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai tại Đại học Kinh tế Quốc dân”.
4 yếu tố quan trọng để đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai
Theo GS.TS Phạm Hồng Chương, Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân, trong vòng 10 năm trở lại đây, tiếng Anh đã trở thành thế mạnh nổi bật của sinh viên trường.
Định hướng phát triển 10 năm tới, Đại học Kinh tế Quốc dân sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc giảng dạy và sử dụng tiếng Anh trong toàn bộ hoạt động đào tạo, góp phần đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học theo Kết luận 91 của Bộ Chính trị.

GS.TS Phạm Hồng Chương, Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân
“Đội ngũ giảng viên trẻ khi được tuyển dụng vào Đại học Kinh tế Quốc dân đều yêu cầu có trình độ IELTS tối thiểu 6.5. Bên cạnh đó, các tổ chức tiếng Anh quốc tế hàng đầu tại Việt Nam thường chọn trường làm một trong các địa điểm thi chính. Điều này khẳng định uy tín về cơ sở vật chất, năng lực tổ chức của trường, đồng thời phản ánh nhu cầu và trình độ ngoại ngữ ngày càng tăng cao của sinh viên”, PGS. TS Phạm Hồng Chương cho biết.

PGS.TS Phạm Ngọc Thạch, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Hà Nội
Nói về các khó khăn và thuận lợi khi đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, PGS.TS Phạm Ngọc Thạch, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Hà Nội cho biết, năm 2018, Chính phủ từng đề xuất đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai. Tuy vậy, việc triển khai thời điểm đó không khả thi, bởi hạn chế về điều kiện, nguồn lực, cơ sở vật chất và trình độ đội ngũ.
Tuy vậy, khi Kết luận 91 của Bộ Chính trị được ban hành, đặt mục tiêu cụ thể là đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, thì việc triển khai trở nên có cơ sở hơn. Trong đó, Đại học Kinh tế Quốc dân là một điển hình, đã tiên phong và thể hiện rõ quyết tâm trong việc thực hiện chủ trương quan trọng này.
Cũng theo PGS.TS Phạm Ngọc Thạch, bắt đầu từ năm 2025, môn ngoại ngữ không còn là môn thi bắt buộc trong kỳ thi tốt nghiệp THPT. Chủ trương này lúc mới được công bố, đã nhận về nhiều ý kiến trái chiều. Một số ý kiến lo ngại rằng: “Đã là môn thi bắt buộc mà học sinh còn chưa tự giác học, vậy nếu không bắt buộc, liệu các em có chủ động học tiếng Anh không?”.
Trên thực tế, nhiều năm qua, bài thi tốt nghiệp THPT môn tiếng Anh chủ yếu tập trung vào kiến thức ngữ pháp và từ vựng, chưa đánh giá đầy đủ các kỹ năng ngôn ngữ toàn diện. Do đó, học sinh có xu hướng học để thi, thay vì học để áp dụng tiếng Anh vào thực tế.
"Nếu không xem tiếng Anh là môn thi bắt buộc, giáo viên sẽ có điều kiện dạy đủ bốn kỹ năng: Nghe – Nói – Đọc – Viết, thay vì tập trung dạy ngữ pháp và từ vựng để ôn thi. Đây là giải pháp nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ của học sinh về lâu dài", PGS.TS Phạm Ngọc Thạch khẳng định.
Để từng bước đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, PGS.TS Phạm Ngọc Thạch chỉ ra 4 yếu tố, bao gồm: Đội ngũ giảng viên và sinh viên; Cơ sở vật chất; Môi trường học thuật và giao tiếp bằng tiếng Anh; Hệ thống chương trình đào tạo có nội dung giảng dạy bằng tiếng Anh. Đặc biệt, tiếng Anh phải xuất hiện trong tất cả hoạt động học tập, nghiên cứu, trao đổi trong trường học, mới có khả năng trở thành “ngôn ngữ thứ hai”.
Hiện nay, các trường chuyên ngoại ngữ đang áp dụng hai xu hướng chính: Đào tạo tiếng Anh như một môn chuyên ngành, sinh viên sau khi tốt nghiệp trở thành giáo viên hoặc phiên dịch viên. Cách khác, sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ giảng dạy cho các môn học chuyên ngành (gọi tắt là EMI – English as a Medium of Instruction).
PGS.TS Phạm Ngọc Thạch cho biết, gần đây, Trường Đại học Hà Nội đã tiến hành khảo sát sinh viên về việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học. Kết quả khảo sát cho thấy, sinh viên đề xuất ba nhóm giải pháp chính: Tăng cường đầu tư vào nguồn nhân lực; Đổi mới phương pháp giảng dạy, không theo hướng luyện thi tốt nghiệp; và Đẩy mạnh triển khai giảng dạy các môn học bằng tiếng Anh (EMI). Đáng chú ý, các đề xuất này nhận được sự đồng thuận cao ngay cả từ sinh viên đến từ nông thôn và khu vực đặc biệt khó khăn.
Cần xác định mô hình EMI là trụ cột chiến lược
TS. Lê Anh Đức, Trưởng phòng quản lý đào tạo – Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, “đưa tiếng Anh trở thành thành ngôn ngữ thứ hai” tại một cơ sở giáo dục đại học không chỉ đơn thuần là “dạy thêm tiếng Anh” mà là một quá trình chuyển đổi hệ thống ngôn ngữ theo hướng bình đẳng học thuật - tiếng Anh song hành cùng tiếng mẹ đẻ trong mọi hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và giao tiếp chuyên môn.

TS. Lê Anh Đức, Trưởng phòng quản lý đào tạo – Đại học Kinh tế Quốc dân
Một ngôn ngữ được coi là ngôn ngữ thứ hai trong cơ sở giáo dục đại học khi có quyền ngang hàng với ngôn ngữ thứ nhất trong bố cục tổ chức của Đại học – tức là được trao cùng mức “chính danh” trong văn bản chính sách, chương trình đào tạo và hệ thống đánh giá học tập.
Cũng theo TS. Lê Anh Đức, để được coi là ngôn ngữ thứ hai trong đại học, tiếng Anh cần hội đủ các điều kiện: được sử dụng như ngôn ngữ giảng dạy chính thức trong một phần hoặc toàn bộ chương trình đào tạo; được sử dụng trong nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế; xuất hiện thường xuyên trong các tài liệu nội bộ, hội thảo, diễn đàn chuyên môn, và trong các công cụ quản trị đại học.
Đồng thời, cần có hệ thống kiểm định chất lượng, chuẩn đầu ra, và đào tạo năng lực sử dụng ngang hàng với các tiêu chí học thuật cốt lõi khác, như năng lực chuyên môn, kỹ năng tư duy phản biện...

TS. Ngụy Thùy Trang, Phó Trưởng khoa Ngoại ngữ Kinh tế – Đại học Kinh tế Quốc dân
Theo TS. Ngụy Thùy Trang, Phó Trưởng khoa Ngoại ngữ Kinh tế – Đại học Kinh tế Quốc dân, mô hình EMI (English as a Medium of Instruction – sử dụng tiếng Anh để giảng dạy các môn học chuyên ngành, không thuộc lĩnh vực ngôn ngữ) ngày càng được các trường đại học trên thế giới áp dụng như một chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh học thuật. EMI không chỉ là việc chuyển ngữ giáo trình, mà là sự chuyển đổi toàn diện về cấu trúc, để xây dựng một mô hình đại học song ngữ, nơi tiếng Anh trở thành công cụ chính trong giảng dạy, nghiên cứu và quản trị.
Để phát triển tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai tại Đại học Kinh tế Quốc dân, TS. Trang nhấn mạnh, Nhà trường cần xác định EMI là một trụ cột chiến lược trong giai đoạn 2025–2035, được thể hiện qua các chính sách cụ thể.
Trước mắt, cần xây dựng một “Khung triển khai EMI toàn đại học”, bao gồm: Tầm nhìn, Mục tiêu, Chỉ tiêu, Lộ trình và Cơ chế kiểm định. Đồng thời, hệ thống này cần gắn liền với các chỉ số đánh giá định lượng như: Tỷ lệ học phần giảng dạy bằng EMI theo ngành, Tỷ lệ giảng viên đạt chuẩn năng lực, Tỷ lệ sinh viên tham gia lớp học EMI, Mức độ hài lòng và năng lực đầu ra học thuật bằng tiếng Anh.
PGS.TS. Bùi Đức Thọ, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Đại học Kinh tế Quốc dân cho hay, việc hiện thực hóa mục tiêu đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học không dễ dàng, đòi hỏi chiến lược đầu tư bài bản, đồng bộ trên cả ba phương diện: Con người, Cơ sở vật chất và Môi trường học thuật.
Để đáp ứng mục tiêu này, cần xây dựng một hệ sinh thái toàn diện, trong đó tiếng Anh được sử dụng hiệu quả không chỉ trong giảng dạy và học tập, mà còn trong công tác quản lý, hành chính – từ giảng viên, sinh viên đến đội ngũ cán bộ hỗ trợ.
"Dù còn nhiều thách thức, nhưng Đại học Kinh tế Quốc dân xác định đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai không chỉ là mục tiêu chiến lược mà là nhiệm vụ tất yếu, để nâng cao vị thế của Nhà trường trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh quốc tế", PGS.TS. Bùi Đức Thọ nêu quan điểm.
Tại tọa đàm, nhiều ý kiến cho rằng, để tiếng Anh thực sự trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, cần tạo dựng được môi trường sử dụng tiếng Anh thực chất và liên tục, giúp sinh viên rèn luyện toàn diện các kỹ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết.
Đồng thời, xây dựng môi trường học tập mang tính quốc tế, thông qua việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo để vừa thu hút sinh viên nước ngoài, vừa trang bị cho sinh viên Việt Nam kỹ năng làm việc trong bối cảnh toàn cầu.