Phẫu thuật cột sống thức tỉnh trở thành xu hướng mới trong điều trị bệnh lý cột sống
So với mổ mở truyền thống hay nội soi gây mê toàn thân, phẫu thuật nội soi cột sống dưới hình thức thức tỉnh có nhiều ưu điểm nổi bật và đang trở thành xu hướng mới trong điều trị bệnh lý cột sống ở người lớn tuổi.
Theo thạc sĩ bác sĩ Đỗ Văn Chỉnh, khoa Sọ não Cột sống 1, Bệnh viện Đa khoa Xuyên Á, phẫu thuật nội soi cột sống thức tỉnh đang trở thành xu hướng điều trị hiện đại tại nhiều quốc gia nhờ ưu điểm như không sử dụng thuốc gây mê, phẫu thuật ít xâm lấn, ít đau, phục hồi nhanh, thời gian nằm viện ngắn. Phương pháp này phù hợp với người cao tuổi hoặc người có bệnh lý nền không thể phẫu thuật gây mê theo cách truyền thống.

Kỹ thuật nội soi cũng giúp bác sĩ quan sát, thao tác chính xác. Ảnh: Y.V
Đặc biệt, với phương pháp này, bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo trong suốt quá trình phẫu thuật. Vùng phẫu thuật được phong bế hoàn toàn (ESP block) dưới hướng dẫn siêu âm, giúp người bệnh không đau. Bệnh nhân vẫn có thể giao tiếp và thực hiện một số động tác theo yêu cầu của bác sĩ.
Tại khoa Sọ não Cột sống 1, kỹ thuật này đã được triển khai trong điều trị bệnh lý thoát vị đĩa đệm, góp phần nâng cao hiệu quả điều trị. Điển hình như trường hợp bệnh nhân N.V.L (82 tuổi, Tây Ninh) bị đau cột sống thắt lưng kéo dài, lan xuống chân, tê bì chân trái và phải nằm bất động. Kết quả chụp MRI cho thấy, ông L. thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng L4–L5, mảnh rời chèn ép rễ thần kinh ngoài lỗ liên hợp.
Do tuổi cao và có nhiều bệnh lý nền việc gây mê toàn thân cho bệnh nhân L. tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với tim mạch, hô hấp. Các bác sĩ đã chỉ định phẫu thuật nội soi cột sống thức tỉnh. Ca mổ được thực hiện qua vết rạch khoảng 7 mm, dùng hệ thống nội soi chuyên dụng để lấy khối thoát vị trong khoảng 15 phút.

Bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo trong suốt quá trình phẫu thuật. Ảnh: Y.V
Hai giờ sau phẫu thuật, bệnh nhân có thể ngồi dậy, đi lại nhẹ nhàng, giảm rõ rệt đau lưng. Sau hai ngày, bệnh nhân xuất viện trong tình trạng ổn định.
Các chuyên gia y tế nhận định, phương pháp này giúp hạn chế tổn thương mô mềm, giảm đau rõ rệt sau phẫu thuật, rút ngắn thời gian nằm viện và cho phép bệnh nhân vận động sớm. Đồng thời, bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo trong quá trình mổ, có thể hợp tác với bác sĩ để kiểm soát nguy cơ tổn thương thần kinh.