Phòng, chống buôn bán động vật hoang dã - Bài 2: Vẫn còn hạn chế trong thực thi

Mặc dù thời gian gần đây, việc thực thi cam kết chống buôn bán trái pháp luật động vật hoang dã tại Việt Nam đã có nhiều nỗ lực đáng được ghi nhận, tuy vậy vẫn còn nhiều hạn chế như: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều chồng chéo, thiếu các quy định liên quan đến quản lý mẫu vật săn bắn, tịch thu, thiếu các quy định về giám định pháp y, cứu hộ và tái thả động vật hoang dã còn sống.

Đồng thời, một số quy định còn gây khó khăn cho lực lượng thực thi pháp luật trong quá trình xử lý các vụ vi phạm về buôn bán vận chuyển trái pháp luật các loài động vật hoang dã và tạo ra những "lỗ hổng" pháp lý mà tội phạm về động vật hoang dã lợi dụng.

Còn nhiều “lỗ hổng” pháp lý

Lực lượng chức năng huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang thả 1 con khỉ vàng quý hiếm thuộc nhóm 2B về Khu bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ - Bản Bung. Ảnh: TTXVN phát

Lực lượng chức năng huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang thả 1 con khỉ vàng quý hiếm thuộc nhóm 2B về Khu bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ - Bản Bung. Ảnh: TTXVN phát

Ông Trịnh Lê Nguyên, Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) - một tổ chức phi lợi nhuận ngoài công lập, cho biết: Đối tượng tác động của các điều luật thuộc Bộ luật Hình sự ban hành năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 không bao gồm dẫn xuất của động vật như mật, cao và trứng các loài động vật hoang dã. Điều này khiến hậu quả pháp lý do các đối tượng buôn bán trái phép các mẫu vật loại này gây ra, trở nên khó xác định.

Trong khi đó, Điều 244 quy định chỉ áp dụng trách nhiệm hình sự trong các trường hợp vi phạm liên quan đến bộ phận cơ thể của động vật nếu các bộ phận đó là “bộ phận không thể tách rời sự sống”. Đây là một thuật ngữ không rõ ràng, khó hiểu, có thể dẫn tới nhiều cách giải thích khác nhau và gây khó khăn cho các cơ quan thực thi pháp luật, cơ quan tư pháp.

Chẳng hạn, các bộ phận quan trọng của các cá thể động vật hoang dã như đầu, tim, gan, phổi… thì có thể dễ dàng xác định là “bộ phận không thể tách rời sự sống” - tức là cá thể động vật hoang dã không thể sống mà thiếu các bộ phận đó. Tuy nhiên, đối với các bộ phận khác như vảy, da, lông, răng/ngà, móng vuốt… thì có xác định là “bộ phận không thể tách rời sự sống” không?

Với quy định như vậy, trong trường hợp bắt giữ các lô hàng vận chuyển vảy tê tê, các cơ quan thực thi pháp luật rất khó kết luận đây có phải là bộ phận không thể tách rời sự sống hay không. Nguyên do là một cá thể tê tê có thể vẫn sống nếu bị lấy đi một vài vảy, tuy nhiên khi toàn bộ vảy bị lấy đi thì con tê tê sẽ chết.

Kết quả rà soát các văn bản quy phạm pháp luật của tổ chức WCS tại Việt Nam (WCS, 2018) cũng cho thấy Bộ luật Tố tụng hình sự ban hành năm 2015 còn một số bất cập trong các quy định về xử lý vật chứng là động vật hoang dã.

Ví dụ, Điều 106 quy định “Vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành” để được lưu giữ, bảo quản trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, việc này chỉ có thể tiến hành sau khi “đã có kết luận giám định”, điều này làm khó các cơ quan thực thi pháp luật.

Vướng mắc phát sinh từ các quy định

Từ đầu năm 2020 đến nay, Trung tâm cứu hộ, Bảo tồn và Phát triển sinh vật (Bình Phước) đã thực hiện thả 25 động vật hoang dã sau khi được cứu hộ và theo dõi tình trạng sức khỏe. Ảnh: K GƯỈH/TTXVN

Từ đầu năm 2020 đến nay, Trung tâm cứu hộ, Bảo tồn và Phát triển sinh vật (Bình Phước) đã thực hiện thả 25 động vật hoang dã sau khi được cứu hộ và theo dõi tình trạng sức khỏe. Ảnh: K GƯỈH/TTXVN

Phó Giám đốc Trung tâm Giáo dục thiên nhiên (ENV) Nguyễn Thị Phương Dung cho rằng những vướng mắc phát sinh từ các quy định này gồm: trong việc xử lý các vật chứng là sản phẩm động vật hoang dã thì các cơ quan thực thi pháp luật hiện thiếu cơ sở vật chất và thiết bị bảo quản chuyên dụng như tủ đông lạnh để bảo quản các vật chứng là thịt, xương và sừng động vật. Trong khi đó, nếu không có các tủ đông thì vật chứng dạng này thường bị phân hủy và thối rữa, dẫn tới nguy cơ lan truyền bệnh dịch từ động vật sang người.

Thực tiễn chỉ ra rằng những bất cập được nêu trên có thể làm ảnh hưởng đến các cơ quan thực thi pháp luật trong quá trình ra quyết định xử lý các đối tượng buôn bán, vận chuyển trái pháp luật các cá thể hoặc sản phẩm động vật hoang dã.

Ngoài ra, để có kết quả giám định đôi khi mất rất nhiều thời gian; chưa xác định rõ cơ quan nào là “cơ quan quản lý chuyên ngành” vì hiện chưa có danh sách chính thức về các cơ quan như vậy; chưa có quy định rõ ràng rằng các cá thể động vật hoang dã sẽ được xử lý như thế nào sau khi kết thúc vụ án; chưa có quy định rõ ràng về việc các con vật sẽ được chăm sóc, cứu hộ như thế nào tại trụ sở cơ quan thực thi pháp luật trước khi có kết luận giám định.

Sự hợp tác giữa các cơ quan thực thi pháp luật trong nước về đấu tranh, phòng, chống buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ trái pháp luật các loài động vật, thực vật hoang dã chưa thực sự hiệu quả, thiếu chặt chẽ do quy định pháp luật về chức năng, thẩm quyền chưa rõ ràng, mỗi ngành, cấp có các ưu tiên khác nhau. Các cơ chế phối hợp, quy trình điều tra sau khi bắt giữ các cá thể hoặc sản phẩm động vật hoang dã chưa được quy định rõ, bao gồm cả quy trình lập hồ sơ, chuyển hồ sơ từ lực lượng hải quan, biên phòng, kiểm lâm sang công an, cơ quan giám định, viện kiểm sát và tòa án cũng như việc xử lý động vật hoang dã và bộ phận của chúng sau khi tịch thu.

Mặc dù hiện nay một số tổ chức trong nước và quốc tế tại Việt Nam có mục tiêu chung về bảo tồn đa dạng sinh học, chống buôn bán động vật hoang dã nguy cấp quý hiếm, song vẫn thiếu sự điều phối chung dẫn tới việc hợp tác còn yếu và đặc biệt là chưa có mối kết nối chặt chẽ với các cơ quan tham mưu xây dựng và thực thi chính sách về bảo vệ các loài hoang dã.

Bên cạnh đó, các đối tượng tội phạm liên quan đến săn bắt, buôn bán, vận chuyển các loài hoang dã đã hình thành các đường dây tội phạm xuyên quốc gia, được tổ chức chặt chẽ với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và có xu hướng gia tăng cả về quy mô và tính chất. Trong khi đó, sự hợp tác quốc tế giữa các nước trong khu vực còn hạn chế do luật pháp của từng quốc gia chưa hài hòa, thiếu các hiệp định tương trợ tư pháp. Ngoài ra, các quy định pháp luật chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc chia sẻ thông tin, mẫu vật giữa các quốc gia, thiếu cơ chế phối hợp quốc tế, hoặc có cơ chế nhưng thiếu nguồn lực để triển khai các cơ chế đó trên thực tiễn.

Đáng chú ý, loại tội phạm môi trường, trong đó có tội phạm đối với các loài hoang dã, vẫn được xem là "mới" tại Việt Nam và do đó mức độ nghiêm trọng của nó chưa được đánh giá đúng. Việc phòng, chống loại tội phạm này cũng chưa được đầu tư thỏa đáng để kiểm soát, ngăn chặn, dẫn đến hiện tượng các cơ quan chức năng thiếu nhân lực, nguồn lực, năng lực.

Hơn nữa, sự hiểu biết và nhận thức của một bộ phận không nhỏ người dân nói chung và những người có khả năng tài chính để sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật hoang dã nói riêng, còn sai lệch. Chẳng hạn, họ lầm tưởng về hiệu quả chữa bệnh của các sản phẩm từ sừng tê giác, vảy tê tê hoặc hoang tưởng về tác dụng bồi bổ sức khỏe của rượu ngâm xác động vật hoang dã. Xã hội cũng chưa có thái độ phê phán mạnh mẽ đối với hành vi săn bắt, buôn bán hay sử dụng động vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm làm thực phẩm, làm thuốc, làm đồ trang trí, trang sức hay quà tặng. Trong khi đó việc sử dụng sản phẩm động vật hoang dã, quý hiếm gián tiếp tạo động lực cho bọn tội phạm tiếp tục săn bắn, buôn bán cũng như làm giảm thiểu hiệu quả của các hoạt động thực thi pháp luật nhằm phòng, chống lại vấn nạn này.

Bài cuối: Kiến nghị từ nhiều tổ chức phi Chính phủ

Lý Thanh Hương (TTXVN)

Nguồn Tin Tức TTXVN: http://baotintuc.vn/phap-luat/phong-chong-buon-ban-dong-vat-hoang-da-bai-2-van-con-han-che-trong-thuc-thi-20200413092940071.htm