Phong trào nông dân Tây Sơn và Đại Đô đốc Tây Sơn Bùi Hữu Hiếu (Kỳ 10)
Trân trọng giới thiệu tiếp với bạn đọc cuốn sách 'Phong trào nông dân Tây Sơn và Đại Đô đốc Tây Sơn Bùi Hữu Hiếu' của PGSTS Cao Văn Liên, do NXB Thanh Niên ấn hành.
Kỳ 10
Đàng Trong sau khi khởi nghĩa của chàng Lía ở Qui Nhơn thất bại thì ngay sau đó các dân tộc thiểu số người Chàm, người Chăm Rê vùng dậy. Thương nhân bị nhà nước “ức thương” cũng nối dậy chống chính quyền. Năm 1747 Lý Văn Quang cầm đầu cuộc khởi nghĩa ở Đông Phố (Gia Định) chống lại chính sách bóp nghẹt thương mại và thuế khóa nặng nề của triều đình chúa Nguyễn đánh vào thương nhân.
Tất cả các cuộc khởi nghĩa chứng minh tinh thần bất khuất của nông dân. Tinh thần và sức mạnh của giai cấp này được kết tinh lại thành một cuộc chiến tranh nông dân to lớn nhất vào những năm 70 của thế kỷ XVIII: Phong trào nông dân Tây Sơn.
KHỞI NGHĨA NÔNG DÂN TÂY SƠN BÙNG NỔ, PHÁT TRIỂN THÀNH PHONG TRÀO QUI MÔ CẢ NƯỚC-ĐÁNH BẠI THÙ TRONG GIẶC NGOÀI (1771-1789)
Năm 1771 khởi nghĩa nông dân bùng nổ ở ấp Tây Sơn, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định (nay thuộc huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định) do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo, trong đó nổi bật nhất là Nguyễn Huệ. Cùng với sự phát triển của phong trào, Nguyễn Huệ vươn lên trở thành người anh hùng, lãnh tụ kiệt xuất của phong trào cách mạng nông dân Tây sơn, thành anh hùng dân tộc. Tổ tiên bốn đời của ba lãnh tụ Tây Sơn là họ Hồ ở làng Thái Lão, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Trong một trận giao tranh giữa quân Nguyễn và quân Trịnh, quân Nguyễn đã vượt sông Gianh bắt cụ tổ của họ vào ấp Tây Sơn khai hoang. Từ họ Hồ sau đổi sang họ Nguyễn hẳn nhiều lý do. Thân sinh của ba lãnh tụ Tây Sơn là cụ Nguyễn Phi Phúc và Nguyễn Thị Đông. Năm 1771 khi khởi nghĩa, Nguyễn Huệ là em thứ hai sau Nguyễn Nhạc mới 19 tuổi. Như vậy là Vua Quang Trung-Nguyễn Huệ sinh năm 1752. Sách xưa mô tả Nguyễn Huệ tóc hơi xoăn, khỏe mạnh, da ngăm ngăm đen, mắt sáng như chớp, tiếng nói trầm mà sang sảng như tiếng chuông. Sau này khi tiến ra Bắc lật đổ nhà Trịnh năm 1786, ra mắt vua Lê Hiển Tông, triều đình quan lại nhìn thấy “ thần sắc của Bắc Bình Vương rực rỡ uy nghiêm, ai cũng run sợ hãi hùng”[1]. Thời niên thiếu ba anh em họ Nguyễn cùng theo học với thầy đồ Hiến ở trường Yên Thái (Bình Khê, Bình Định). Nguyễn Huệ học nhanh, hay lật ngược tất cả nghĩa của chữ mà hỏi khiến thầy rất khâm phục. Từ thời niên thiếu ấy Quang Trung đã tỏ ra là con người can đảm, đại lượng, khiêm tốn, có hoài bão chí lớn, hiểu sâu sắc về chính trị, thời thế. Có lần thầy Hiến hỏi Huệ về câu sấm đương thời đang lưu truyền: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công”, Nguyễn Huệ đáp: “Bắc và Nam xã hội thối nát, nhân dân khổ cực, căm phẫn, không thể tránh khỏi một cuộc biến cách”. Từ đó Nguyễn Huệ đã ra sức học tập, ham mê nghiên cứu binh thư và võ nghệ, xuất chúng tinh thông về mọi lĩnh vực, chuẩn bị là người đóng vai trò rường cột trong mọi biến cách của xã hội sắp tới.
Phong trào Tây Sơn đã phất cao lá cờ đỏ (dài 10m), nêu khẩu hiệu “Lấy của nhà giầu chia cho dân nghèo”. Khẩu hiệu là tư tưởng chính trị bình đẳng, cũng nêu lên nguyện vọng của quần chúng nhân dân khi đó. Ngoài ra lại thêm khẩu hiệu thuộc sách lược chính trị để phân hóa kẻ thù: “Diệt quyền thần Trương Phúc Loan, tôn phò Hoàng Tôn Dương”. Với những khẩu hiệu đáp ứng được nguyện vọng bức thiết của nhân dân nên lực lượng nghĩa quân tăng lên nhanh chóng. Ngoài nông dân, trong lực lượng nghĩa quân còn có nhiều tầng lớp khác tham gia như thổ hào (Nguyễn Trung), phú hào (Nguyễn Khê) và nhiều thầnh phần dân tộc như các đạo quân nguời Hoa (Hòa Nghĩa, Trung Nghĩa của Lý Tài, Tập Đình), người Chăm, người Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng... Lực lượng Tây Sơn lên đến hàng vạn người. Nghĩa quân từ Bình Định nhanh chóng hạ phủ thành Qui Nhơn, làm chủ Bình Định. Từ Bình Định lá cờ đỏ của nghĩa quân tung bay làm chủ miền Quảng Nam ở phía Bắc, làm chủ Diên Khánh (Khánh Hòa), Bình Thuận ở phía nam.
Nhân cơ hội Đàng Trong có biến động, nhà Trịnh ở Đàng Ngoài muốn tiêu diệt chúa Nguyễn, thôn tính Đàng Trong. Mùa đông năm 1774 nhà Trịnh sai tướng Hoàng Ngũ Phúc đem 4 vạn quân vượt sông Gianh tiến vào Thuận Hóa. Đầu năm 1775 Hoàng Ngũ Phúc chiếm Phú Xuân (Huế) rồi vượt đèo Hải Vân tiến đánh Tây Sơn. Chúa Nguyễn Phúc Thuần bỏ Phú Xuân chạy vào Gia Định rồi từ mặt nam đánh ra. Hai vạn quân Nguyễn do Tống Phúc Hiệp chỉ huy tấn công quân Tây Sơn ở Bình Thuận. Quân Tây Sơn phải bỏ Bình Thuận, Phú Yên, Diên Khánh, Bình Khang rút về Qui Nhơn. Ở mặt trận phía Bắc quân Tây Sơn do Lý Tài, Tập Đình chỉ huy bị quân Trịnh đánh bại ở Cẩm Sa, phải bỏ Quảng Nam rút về Qui Nhơn. Quân Tây sơn bị kẹp giữa hai gọng kìm Trịnh-Nguyễn và có nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn.
Trong tình thế nguy cấp đó, Nguyễn Huệ là người sáng suốt chủ trương hòa hoãn với quân Trịnh ở phía bắc để tiêu diệt quân Nguyễn ở phía nam. Tướng Trịnh Hoàng Ngũ Phúc muốn lợi dụng Tây Sơn để tiêu diệt chúa Nguyễn nên nhận lời cầu hòa thần phục của Tây Sơn. Phúc sai Nguyễn Hữu Chỉnh vào Qui Nhơn phong cho Nguyễn Nhạc chức “Tây Sơn trưởng hiệu, Tráng tiết tướng quân”. Nguyễn Nhạc phong cho Nguyễn Huệ chức Đại tướng cầm quân đánh quân Nguyễn. Năm đó Nguyễn Huệ mới 23 tuổi. Chỉ một ngày của năm 1775 bằng mưu trí và tài dùng binh, Nguyễn Huệ đã hạ thành Phú Yên, tiêu diệt hai vạn quân thủy bộ của nhà Nguyễn, danh tướng Tống Phúc Hiệp phải bỏ chạy, nhiều tướng lĩnh của nhà Nguyễn bị Nguyễn Huệ tiêu diệt hay bắt sống như Nguyên Văn Hiến, Nguyễn Khoa Kiên... Chiến thắng Phú Yên của quân Tây Sơn làm cho quân Nguyễn mất hẳn khả năng tấn công quân Tây Sơn ở mặt nam, quân Tây Sơn thoát khỏi thế bị kẹp giữa hai gọng kìm. Quân Trịnh của Hoàng Ngũ Phúc ở mặt bắc cũng rút khỏi Quảng Nam, lùi ra đóng giữ Phú Xuân. Chiến thắng Phú Yên đã mở ra một cục diện mới, khởi nghĩa thoát khỏi tính chất địa phương, phát triển ra toàn bộ Đàng Trong. Danh tiếng của Nguyễn Huệ từ đó lừng lẫy, tài năng quân sự của ông được phát huy, rèn luyện trong nội chiến đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Quân thù bắt đầu khiếp sợ khi nghe danh tiếng của ông.
(Còn nữa)
CVL
[1] :Ngô Gia văn phái:Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb văn học, Hà Nội, 1964, trang