Quan Âm giáo hóa tự tại vô cùng
Trong kinh Quán Vô lượngthọ, Bồ-tát Quan Âm thị hiện vô số hóa Phật. Trong Tâm kinh, Ngài có tên làQuán Tự Tại thông cả hữu hình và vô hình, hữu tình và vô tình. Ngài hoàn toàn tựtại với tất cả các pháp, với mọi hiện tượng trên cuộc đời thì việc ban vui cưúkhổ mới không chướng ngại. Với tư chất Quán Tự Tại, Ngài quán sát, phá vỡ đượcvỏ ngũ uẩn thành không, không còn chướng ngại trong việc làm đạo và khổ ách đêùdứt.
Tôn tượng Quan Âm tại chùa Huê Nghiêm, Q.2, TP.HCM
Vì đáp ứng nhucầu của mọi người hoàn toàn tự tại, đối với Quan Âm, sắc mới là sắc, không làkhông, mà sắc cũng không phải là sắc, không cũng không phải là không… Giáo hoácủa Quan Âm rõ ràng là vô quái ngại. Thật vậy, kẹt vào sắc thì bị hạn cuộc, màrơi vào không thì tâm từ sẽ bị chết, không hành đạo Bồ-tát được.
Quan Âm sử dụng đại bi và đại trí như hai cánh tay.Tác dụng của Quan Âm dưới dạng tâm. Đại bi tâm của Ngài sanh ra tất cả các pháphóa độ chúng sanh. Vì thế, tuy không hiểu Đà-la-ni của Ngài, ta vẫn cảm nhận được.Tình thương của Bồ-tát Quan Âm hay của Phật được nâng đến độ cao nhất, thâýtình thương không còn mới chính là tình thương chân thật. Giống như mặt trời toảchiếu sự sống khắp nhân gian, không phân biệt tốt xấu. Dù ta quý mến Phật haykhông, Ngài vẫn thương ta. Thành tựu tư cách này, Bồ-tát Quan Âm hành đạo khôngchướng ngại, thân giáo hóa thế gian mà tâm vẫn an trụ thế giới Phật.
Phẩm Phổ môncho thấy Quan Âm là một vị Phật hành đạo dưới dạng Bồ-tát. “Ưng dĩ Phật thân đắcđộ giả, tức hiện Phật thân nhi vị thuyết pháp”. Hay nói cách khác, ta thờ ĐứcPhật Thích Ca mà cảm Đức Quan Âm thì đó chính là Quan Âm vậy.
“Ưng dĩ Bíchchi Phật thân đắc độ giả, tức hiện Bích chi Phật thân nhi vị thuyết pháp”. Nêúlà Duyên giác thực sẽ không độ được người và chỉ trụ ở điểm đó thôi. Tuy nhiên,vị Duyên giác này là hiện thân của Quan Âm Bồ-tát thì theo họ tu, hành giả đượckhai mở, phát tâm Bồ-đề và tu hạnh Quan Âm lúc nào mà hành giả không biết.
Vì hiện thântam Thánh không đủ để hóa độ chúng sanh, Bồ-tát Quan Âm còn hiện thân trời Phạmvương hay trời Đại Phạm Thiên vương của Ấn Độ giáo để đáp ứng nhu cầu nhân gian.Tất cả các vị trời này là biểu tượng tín ngưỡng của các tôn giáo Ấn Độ và TrungHoa. Nếu thực sự các vị này là hiện thân của Bồ-tát Quan Âm để hóa độ chúng ta,thờ các Ngài ít lâu, chúng ta sẽ hướng tâm về Phật. Thể hiện tinh thần này,chúng ta thấy các vị thần Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản lần quy về Phật đạo, nhờQuan Âm Bồ-tát hiện dưới dạng vị thần hóa độ.
Ngay trong cuộcsống hiện tại, Bồ-tát Quan Âm thường hiện ra dưới biểu tượng gợi cho hành giảphát tâm; nhưng hành giả không biết được và hạ xuống thấp nhất, Ngài giải quyếtcho nhân gian hai điều mà họ cầu xin và giúp họ thoát khỏi bảy tai nạn (Thất nạnnhị cầu).
Trường hợp hànhgiả rơi vào tuyệt mạng tuyệt thể, phá vỡ được màn ngũ uẩn, từ Phật tánh khơỉtâm đại bi, mới nhận được đồng thể đại bi với Quan Âm. Hành giả không ở trạngthái tuyệt mạng tuyệt thể, nhưng trụ được tâm trong Đà-la-ni, vẫn có độ cảm nhưtrên.
Vì vậy, niệmQuan Âm phải niệm dưới dạng niệm tâm mới giao cảm được với Ngài. Chánh niệm đếnđộ hành giả đồng hạnh với Quan Âm, thân hành giả hiện thành thân Quan Âm. Dùngđược thân Quan Âm trang nghiêm cho thân mình, việc ác không thể đến với hành giả.Thế giới an lành của Bồ-tát lần lần mở ra cho hành giả, hoặc hành giả chuyển đôỉđược hoàn cảnh xấu thành tốt. Thí dụ bị lửa đốt cháy, hành giả Chánh niệm QuanÂm, lửa không đốt được, nhưng hành giả phải niệm bằng tâm niệm. Còn niệm ngoàimiệng để khỏi cháy thì thế nào cũng cháy. Niệm đến vô niệm, niệm ngoài “Thức”,không còn biết nóng. Dù cho xác thân cháy, cũng chỉ cháy ngũ uẩn thân và hành giảchứng được Pháp thân.
Từ nạn lửa, chođến bị nước cuốn trôi, gông cùm xiềng xích, oán tặc bao vây…, hành giả trụ tâmChánh niệm Quan Âm, Ngài đều gia hộ cho thoát khỏi tai nạn. Nhưng hành giả phảicầu đúng, nghĩa là đồng hạnh đồng nguyện với Quan Âm, Ngài mới gia bị. Cầu nguyệndưới dạng vô ý thức của con người hay xưng tánh gọi là chuyên niệm mới bắt gặplực hộ niệm của Bồ-tát Quan Âm, một sự hộ niệm hay trợ lực nằm ngoài sự hiểu biếtdiễn tả thông thường. Nếu gặp hiểm nguy, chúng ta có chuẩn bị và tìm lối thoátđược, thì đó không phải là thần lực của Bồ-tát Quan Âm.
Quan Âm xuất hiện với 32 ứng hiện thân, tức ở trong32 hoàn cảnh tiêu biểu cho mọi tình huống, Ngài đều thị hiện tương ưng để giảiquyết 7 tai nạn cho người thế gian. Như vậy, Ngài đương nhiên trở thành ngươìche chở cần thiết, mang an lành cho chúng sanh Ta-bà, làm thế nào họ chán Ngàiđược. Nhất là yêu cầu thoát khỏi mọi tai nạn khổ ách là yêu cầu bức bách muôn đơìcủa chúng sanh Ta-bà. Từ gợi ý này, Phật khuyên chúng ta niệm Quan Âm, tức họchạnh Quan Âm, đến đâu đáp ứng yêu cầu lợi lạc nơi đó. Được như vậy, công việchoằng hóa độ sanh của chúng ta nhất định tốt đẹp.
Việc làm củaQuan Âm không chỉ giới hạn ở thất nạn nhị cầu, Ngài còn dắt hành giả qua 500 dotuần đường hiểm về Bảo sở. Trên 500 do tuần, hành giả thấy 500 Quan Âm khácnhau. Mỗi do tuần, hành giả có một Quan Âm và sau cùng ở Bảo sở, Bồ-tát Quan Âmcủa hành giả là Đức Phật.
Từ trên Phật quảxuống, Ngài đưa hành giả về thế giới Phật bằng thuyền từ, tiêu biểu bằng cánhsen mang ý nghĩa nương theo hạnh Bồ-tát để tu Pháp Hoa.
Quan Âm Bồ-tát không chỉ làm những việc lặt vặt nhưthất nạn nhị cầu, hay cầu gì cho nấy. Hiểu như vậy, Bồ-tát Quan Âm sẽ không cònlinh nghiệm, vì có người cầu được, có người cầu không được.
Chẳng những Bồ-tát Quan Âm hành đạo ở Ta-bà,Ngài còn trợ hóa Phật A Di Đà ở Tịnh độ phương Tây. Việc làm của Ngài ở hai trụxứ tịnh uế trái ngược này khiến chúng ta cảm nhận được vào thời quá khứ, Ngàilà vị cổ Phật Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì thương nhân gian, Ngài hiện thân sốngvới chúng sanh Ta-bà dưới dạng Bồ-tát Quan Âm. Hiện hữu bằng con người đắc đạohoàn toàn, Ngài rất tự tại trong khi giáo hóa chúng sanh, cần ứng hiện thânnào, Ngài mang thân đó. Nói rộng hơn, Bồ-tát Quan Âm nhằm diễn tả Pháp thân Phậthay phẩm Phổ môn nói lên sự giáo hóa của Đức Phật Thích Ca bằng lực vô hình. Từlực vô hình ở bản thể hiện thành hiện thực theo yêu cầu của loài người.
Trên bước đườnghành Bồ-tát đạo, muốn thành tựu công đức, phải hiện được càng nhiều sắc thâncàng tốt, tức phải có trí tuệ nhìn đúng sự thật, ứng xử cho hợp tình hợp lý. Vìvậy, các vị danh tăng hiện hữu khắp nơi, mang những hình thái khác nhau. Tuynhiên, tất cả đều đáp ứng được việc lợi ích quần sanh và đưa người về Phật đạogiải thoát. Ý này nói lên tinh thần vì thương tưởng cho đời, Đức Phật hiện thânở Ta-bà làm đủ các việc, hay tinh thần Phổ môn thị hiện dưới tất cả loại hìnhtheo yêu cầu của chúng sanh. Với mục tiêu này, Bồ-tát Quan Âm hiện hóa trên cuộcđời bằng mọi dạng thức. Từ Phật cảnh giới, Ngài bước vào trần gian, sống bên cạnhchúng ta để đưa tất cả đến bờ giải thoát. Nếu chỉ thấy Ngài dưới dạng thức banvui cứu khổ để van vái cầu xin, thì Ngài là một vị thần linh đã chết. Nhưng nêúchúng ta cảm hạnh Ngài qua tri thức và suy luận của nhân gian thì Ngài trởthành tà kiến. Hạnh Quan Âm không thể hiểu ở trạng thái cục bộ này.
Quan Âm phải ở dạng thức từ trên Phật quả nhìnxuống chúng sanh giới để làm đạo và từ nơi này hướng về Phật cảnh giới trong tưthế khai ngộ. Theo Ngài Huệ Tư, Phật giới và chúng sanh giới không khác. Phậtlà Diệu Pháp, chúng sanh là Liên Hoa. Bồ-tát hành đạo không thể hủy diệt môitrường chúng sanh. Đức Phật tu hạnh Bồ-tát mới dung hóa được hai cõi tịnh uế vàlấy chúng sanh giới làm Niết-bàn. Có thể ví Bồ-tát là hoa, Phật là quả, chúngsanh là gốc rễ, pháp là nước và phân đất là phiền não. Hiểu được như vậy, hạnhQuan Âm mới là cửa ngõ cho Bồ-tát sơ phát tâm vào đạo; vì ngoài hạnh Quan Âm,không có hạnh nào khác để hành đạo.
Bước theo lộ trình thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh màQuan Âm vẽ ra, chúng ta tùy duyên là tùy theo yêu cầu của chúng sanh để đáp ứnglợi lạc cho họ; nhưng tâm hồn ta lúc nào cũng phải hoàn toàn trong sạch thanh tịnh.Giống như hình ảnh của Quan Âm trợ hóa cho Phật A Di Đà ở Tây phương thuần tịnh,Ngài vẫn hiện hữu mãi mãi bên cạnh chúng sanh Ta-bà đau khổ.
Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//nguyetsan/phathocungdung/2019/08/02/5e7281/