Quê hương xứ sở trong văn học Hà Tĩnh giai đoạn 1975-2025
Hướng về nguồn cội với tất cả nghĩa tình sâu nặng là một trong những nội dung nổi bật của văn học Hà Tĩnh 50 năm qua.
Ở bất cứ giai đoạn lịch sử nào, lòng yêu nước cũng là một trong những nguồn cảm hứng sâu đậm nhất của văn học, nghệ thuật. Cảm hứng yêu nước biểu hiện trong muôn vàn cung bậc, sắc thái khác nhau, tùy thuộc vào sự tác động của thực tế đời sống cũng như cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
Cảm hứng yêu nước trong văn học nghệ thuật Hà Tĩnh giai đoạn 1975-2025 biểu hiện trước tiên ở tình cảm của người cầm bút với quê hương, xứ sở. Tình cảm thiêng liêng máu thịt ấy được hình thành tự nhiên trong mối quan hệ giữa nhà văn và môi trường sống cùng ý thức về bổn phận đối với nơi chôn nhau cắt rốn, với cội nguồn.

Hình ảnh quê hương xuất hiện trong nhiều tác phẩm nghệ thuật của các tác giả Hà Tĩnh. Ảnh: Huy Tùng
Mặt khác, những đặc trưng văn hóa làng xã cổ truyền miền đất Hà Tĩnh chi phối sâu sắc quan niệm sáng tạo của nhà văn. Họ có sự nhạy cảm đạo đức, cảm giác, cảm xúc và tư tưởng nghệ thuật riêng trong trải nghiệm, thấu hiểu con người và vùng đất quê mình. Đất quê mình, dù thơ mộng, hùng vĩ, “giang sơn tụ khí” hay đầy những tai ương của chiến tranh và thiên tai thì trong thẳm sâu cõi lòng, nhà văn Hà Tĩnh vẫn dành tình cảm chân thành, tha thiết nhất cho nơi chôn nhau cắt rốn.
Một Hà Tĩnh thường xuyên đối mặt với thiên tai khắc nghiệt: Bão xô nghiêng mảnh đất gầy/ Nắng hun đến cái diệp cày cũng cong (“Lục bát Tiên Điền” - Yến Thanh). Mỗi người viết là một góc nhìn, một cách cảm nhận nhưng trong rất nhiều tác phẩm viết về quê hương, hình ảnh “nắng lửa”, “gió hun”, “đồng bãi khô cằn”, “đất cày lên sỏi đá”, “cơn bão chưa qua hạn hán đã tới rồi” cứ trở đi trở lại như những điệp khúc xót xa trong thơ Phan Duy Thảo, Nguyễn Ngọc Phú, Bùi Quang Thanh, Bùi Minh Huệ, Nguyễn Ngọc Vượng, Phan Trọng Tảo, Nguyễn Văn Hoan, Trần Nam Phong, Quỳnh Như…; trong văn xuôi Đức Ban, Phan Thế Cải, Võ Minh Châu, Nguyễn Xuân Diệu, Lê Văn Vỵ, Hà Lê, Nguyễn Trung Tuyến, Trần Quỳnh Nga… Và trong các loại hình nghệ thuật: âm nhạc (Ngọc Thịnh, Quốc Nam, Trịnh Ngọc Châu, Mạnh Chiến…); ảnh nghệ thuật (Phan Thoan, Trần Hướng, Sỹ Ngọ, Đình Thông, Huy Tuấn, Hữu Vơn…); hội họa (Phạm Lê Khang, Lê Anh Tuấn, Lê Anh Ngọc, Trần Lê Khả…); sân khấu kịch nói (Nguyễn Ban, Sỹ Thiện); kịch hát dân ca (Phan Lương Hảo, Trương Quang Bốn, Đặng Duy Hải, Hoàng Vinh…); trong múa (Nguyễn Thị Cẩm, Nguyễn Thị Thanh Mai, Hoài Thu)...

Viết về quê hương, nhà văn giàu tâm huyết gửi cả hồn mình vào từng hình ảnh đơn sơ mà thân thuộc, vào mỗi nỗi buồn, niềm vui, những mong ước bình dị của con người...
Sau ngày đất nước thống nhất đến nay, các tác giả thuộc loại hình văn học xa dần tư tưởng nghệ thuật ngợi ca một chiều từng phổ cập văn chương một thời, để dấn thân vào đời sống, tìm tòi, khai thác, thấu hiểu những vấn đề sâu xa, lẩn khuất trong tâm hồn con người, trong ngổn ngang hiện thực cuộc sống. Đấy là lối ngõ để văn học, nghệ thuật đến với tâm hồn độc giả.
Hình ảnh quê hương lộ diện ra trong từng gương mặt người, in dấu trong từng bữa ăn ngày no, ngày đói. Viết về quê hương, nhà văn giàu tâm huyết gửi cả hồn mình vào từng hình ảnh đơn sơ mà thân thuộc, vào mỗi nỗi buồn, niềm vui, những mong ước bình dị của con người. Chẳng phải ngẫu nhiên mà hình tượng mẹ với bao nỗi vất vả, nhọc nhằn được thể hiện trong văn học luôn da diết với những tình cảm thương mến quê nghèo. Qua mẹ, ta hiểu sâu sắc hơn về quê hương như trong các tác phẩm: “Mùa gặt” - Quỳnh Như, “Làng Diêm” - Nguyễn Ngọc Vượng, “Giấc mơ tuổi thơ” - Trần Nam Phong, “Cắt móng chân cho mẹ” - Lê Văn Vỵ, “Hạt đắng” - Bùi Quang Thanh, “Lối xưa” - Hoàng Văn Hóa, “Thưa với mẹ” - Nguyễn Văn Thanh…

Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Tĩnh tổ chức hội nghị tổng kết công tác năm 2024, triển khai nhiệm vụ năm 2025.
Nếu quê hương hiện lên trong thơ như những nét ký họa rưng rưng nỗi niềm, thì ở văn xuôi, với ưu thế của thể loại, hình ảnh quê hương được tái hiện một cách chi tiết, đầy đặn và sống động trong truyện ngắn của Đức Ban, Trần Đắc Túc, Nguyễn Thị Phước, Như Bình, Đặng Thanh Quê, Trần Hải Vân, Trần Tú Ngọc, Trần Quỳnh Nga, Nguyễn Trung Tuyến…; trong ký của Lê Trần Sửu, Chính Tâm, Võ Minh Châu, Phan Trung Hiếu, Phan Thế Cải, Nguyễn Xuân Diệu...
Người Hà Tĩnh có những nét đối nghịch rất đặc trưng: âm thầm nín nhịn và quyết liệt dữ dội; vị kỷ và vị tha; hẹp hòi và rộng lượng; lý sự và tình nghĩa; tự tôn và tự ti; nghiệt ngã và bao dung, cộc cằn; chân mộc và đa cảm, đa đoan…
Những nhân vật như chị Thảo - “Hoa bần”, ông Cự - “Ngôi sao hôm leo lét”, Nợi - “Đền thờ Thánh mẫu” của Đức Ban; bà Đậu - “Mùi cám mới”, Cúc - “Cầu vồng” của Nguyễn Thị Phước; ông Đảm - “Làng Vòng” của Trần Đắc Túc; bà Mão - “Dưới chân núi Mồ Côi”, o Thiu - “Hoa gạo”, lão Mốc - “Đêm nguyệt thực” của Như Bình; o Chắt - “Nhà thờ tướng công” của Đặng Thanh Quê… cho ta hình dung khá rõ khí chất, tính cách của con người Hà Tĩnh. Điều đáng nói là qua những thân phận riêng tư cá biệt ấy, các nhà văn muốn gửi gắm mối đồng cảm sâu sắc với người anh em quê hương mình.
Song, nếu văn học Hà Tĩnh chỉ đề cập đến một vài mặt như vừa trình bày trên đây thì chắc chắn vẫn còn phiến diện. Hà Tĩnh là một vùng đất giàu truyền thống quật cường cũng như có bề dày của một vùng văn hóa lâu đời. Quê hương của Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Tự, Phan Huy Ích, Lê Hữu Trác, Nguyễn Thiếp, Hoàng Ngọc Phách, Võ Liêm Sơn, Xuân Diệu, Huy Cận, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Đổng Chi… nơi đã sản sinh những huyền thoại, truyền thuyết, cổ tích, những câu chuyện trạng hấp dẫn, những làn điệu ví, giặm, ca trù, phường vải… đặc sắc thì không thể không gợi lên ở người thời nay những suy nghĩ, tự hào.

Văn hóa của quê hương đã trở thành một nguồn cảm hứng trong văn học Hà Tĩnh 50 năm qua. Trong ảnh: Tiết mục mở màn chương trình nghệ thuật "Trăm năm ngàn năm Hải Thượng Lãn Ông" tại Lễ kỷ niệm 300 năm Ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác do tỉnh Hà Tĩnh chủ trì tổ chức. Ảnh: Đậu Hà
Văn hóa của quê hương đã trở thành một nguồn cảm hứng trong văn học Hà Tĩnh 50 năm qua. Viết về quê hương là tái hiện cái thực tại đang diễn ra, là khai thác những tầng vỉa văn hóa tinh thần trong lòng cuộc sống. Văn hóa dân gian, văn hóa đương đại sẽ tiếp tục nuôi dưỡng tâm hồn, khai phóng tư duy người hôm nay trong hành trình tới tương lai. Đấy cũng chính là tình cảm biết ơn, nhớ thương nguồn cội. Như cách mà Trần Đắc Túc đã đề cập trong “Làng xưa bạn cũ”: “Thế đất vòng cung của làng giống hình một con rùa nếu nhìn xa từ trên rú Hống, phía bến Nậy là đầu, mà đuôi là khúc bến Lò. Các cố trong làng hay gọi đó là thế đất hồi quy. Con rùa bò về. Về đâu nhỉ? Về hang hay về bến? Tôi hỏi Cố Chuyên, một cụ già giỏi chữ Nho hãy còn đang sống. Cụ giải thích: Không chỉ con rùa đâu, chỉ phận người làng đấy. Người làng kiếm ăn xa xứ, cuối cùng cũng dắt díu nhau về, chẳng cứ thân rùa... Mỗi người một cách trở về. Thế đất hồi quy các cụ nói vậy không sai. Đường đi của đời người như đã uốn theo vạch”.
Sông có nguồn, cây có cội, người có tổ tiên, quê hương. Hướng về nguồn cội với tất cả nghĩa tình sâu nặng là một trong những nội dung nổi bật của văn học Hà Tĩnh 50 năm qua. Những tác phẩm như vậy chắc chắn sẽ còn có chỗ đứng xứng đáng trong lòng người đọc.