Quốc hội thông qua Luật Giám định tư pháp sửa đổi với 10 hành vi cấm
Luật có 10 hành vi bị nghiêm cấm, trong đó cấm từ chối tiếp nhận, thực hiện giám định tư pháp mà không có lý do chính đáng; cố ý kéo dài thời gian thực hiện...
Chiều 5/12, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, Quốc hội biểu quyết chính thức thông qua Luật Giám định tư pháp (sửa đổi) với 439/443 đại biểu bấm nút tán thành.
10 HÀNH VI BỊ CẤM TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP
Theo Luật, có 10 hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động giám định tư pháp. Theo đó: Cấm từ chối tiếp nhận, thực hiện giám định tư pháp mà không có lý do chính đáng; cố ý kéo dài thời gian thực hiện giám định tư pháp, thời gian ban hành kết luận giám định tư pháp.

Từ chối kết luận giám định tư pháp mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.
Tiết lộ thông tin trong quá trình thực hiện giám định tư pháp gây ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng.
Lợi dụng danh nghĩa người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp để trục lợi.
Nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác từ đơn vị, tổ chức, cá nhân để làm sai lệch việc trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp hoặc để làm sai lệch kết quả, kết luận giám định tư pháp.
Cố ý đưa ra kết luận giám định tư pháp sai sự thật.
Lợi dụng việc trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp để gây khó khăn, cản trở hoạt động tố tụng.
Lạm dụng việc trưng cầu giám định tư pháp trong hoạt động tố tụng hình sự để thay thế công tác điều tra, thực hiện nghĩa vụ chứng minh của cơ quan tiến hành tố tụng.
Can thiệp, cản trở việc thực hiện giám định của người giám định tư pháp.
Xúi giục, đe dọa, ép buộc người giám định tư pháp đưa ra kết luận giám định tư pháp sai sự thật.
Luật Giám định tư pháp (sửa đổi) cũng nêu rõ tiêu chuẩn giám định viên pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự phải là người đã trực tiếp giúp việc trong hoạt động giám định ở tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự thì thời gian hoạt động thực tế chuyên môn từ đủ 03 năm trở lên; Đã qua khóa bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ giám định tư pháp...
MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP
Tại nghị trường, trình bày Báo cáo tóm tắt về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Giám định tư pháp (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh đã làm rõ một số vấn đề liên quan.

Về nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức giám định tư pháp công lập thuộc Công an tỉnh, thành phố, một số ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với quy định của dự thảo Luật về bổ sung nhiệm vụ giám định pháp y thương tích cho tổ chức giám định tư pháp công lập thuộc Công an tỉnh, thành phố. Một số ý kiến khác đề nghị giữ nguyên như quy định hiện hành, theo đó tổ chức này chỉ thực hiện giám định pháp y tử thi.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có kết luận đối với dự án Luật, trong đó cơ bản tán thành với quy định này tại dự thảo Luật, tuy nhiên đề nghị cần cung cấp thêm thông tin, đánh giá cụ thể hơn về ưu điểm, hạn chế, tác động tích cực và tiêu cực khi sửa đổi dịnh này. Trên cơ sở ý kiến kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và báo cáo, đánh giá của Bộ Công an, dự thảo Luật tiếp tục quy định tại khoản 4 Điều 17 về việc tổ chức giám định tư pháp công lập về kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh, thành phố được thực hiện giám định pháp y tử thi, pháp y thương tích và giao Chính phủ quy định chi tiết khoản này.
Về phạm vi thành lập, hoạt động của văn phòng giám định tư pháp, một số ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với quy định của dự thảo Luật về mở rộng phạm vi thành lập văn phòng giám định tư pháp. Bên cạnh đó, một số ý kiến đề nghị xem xét mở rộng nhiều hơn nữa theo nhu cầu thực tế như: thông tin truyền thông, khoa học và công nghệ, dược, mỹ phẩm, an toàn thực phẩm, nông lâm thủy sản, động vật hoang dã, quý, hiếm, môi trường, giao thông và được phục vụ cả tố tụng hình sự, nhu cầu xã hội để góp phần giảm tải áp lực đối với cơ quan, đơn vị giám định hiện nay.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị không quy định cho phép thành lập văn phòng giám định tư pháp được giám định ADN, tài liệu, kỹ thuật số và điện tử, dấu vết đường vân, nếu có cho phép thành lập thì cân nhắc giao Chính phủ căn cứ tình hình thực tiễn quy định cụ thể văn phòng giám định tư pháp được thành lập ở lĩnh vực nào cho linh hoạt.
Nhằm đẩy mạnh xã hội hóa một số lĩnh vực giám định, đáp ứng tốt yêu cầu của hoạt động tố tụng, nhất là tố tụng dân sự, hành chính; khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập với lộ trình phù hợp yêu cầu thực tế, đồng thời có biện pháp bảo đảm, kiểm soát chặt chẽ về chất lượng giám định, dự thảo Luật quy định theo hướng mở rộng thêm phạm vi thành lập văn phòng giám định tư pháp ở một số lĩnh vực, chuyên ngành, trong đó riêng chuyên ngành giám định ADN, tài liệu, kỹ thuật số và điện tử, dấu vết đường vân chỉ được thực hiện đối với tố tụng dân sự, hành chính.
Trên cơ sở quy định mang tính nguyên tắc cơ bản này của Luật, tới đây, Chính phủ tiếp tục quy định chi tiết trình tự, thủ tục thành lập, đăng ký, kiểm soát chất lượng hoạt động của Văn phòng giám định tư pháp.
Mặc dù một số lĩnh vực, chuyên ngành giám định có phát sinh trưng cầu giám định (môi trường, thông tin và truyền thông, khoa học và công nghệ...) có phát sinh trưng cầu giám định nhưng chưa thực sự lớn, thường xuyên nên trước mắt chưa mở rộng phạm vi thành lập văn phòng giám định tư pháp đến các lĩnh vực, chuyên ngành này.
Từ các lý do nêu trên, Chính phủ đề nghị giữ nguyên quy định về mở rộng phạm vi thành lập, hoạt động của văn phòng giám định tư pháp như dự thảo Luật; riêng chuyên ngành ADN, giám định tài liệu, kỹ thuật số và điện tử, dấu vết đường vân thì văn phòng giám định tư pháp chỉ được thực hiện trong tố tụng dân tố sự, tụng hành chính, các cơ quan giám định công lập thực hiện trong tố tung hình sự.

Về quyền được miễn trừ trách nhiệm pháp lý của người giám định tư pháp trong hoạt động giám định tư pháp, một số ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị không quy định miễn trừ trách nhiệm pháp lý của người giám định tư pháp trong hoạt động giám định tư pháp như dự thảo Luật.
Một số ý kiến đề nghị cần nghiên cứu kỹ quy định miễn trừ trách nhiệm pháp lý của người giám định tư pháp trong hoạt động giám định tư pháp hoặc cần phải quy định chặt chẽ, miễn trừ có điều kiện hoặc bổ sung phạm vi miễn trừ.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật được nghiên cứu, chỉnh lý theo hướng người giám định tư pháp được xem xét loại trừ, miễn, giảm trách nhiệm theo quy định của pháp luật có liên quan và của cấp có thẩm quyền khi đã thực hiện giám định đúng quy định về trình tự, thủ tục, quy trình giám định tư pháp, quy chuẩn chuyên môn trong hoạt động giám định, vô tư, khách quan, không vụ lợi; trường hợp kết luận gian dối hoặc từ chối kết luận giám định mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Về xử lý vi phạm đối với cá nhân, tổ chức trong hoạt động giám định tư pháp, ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị bỏ Điều 42 của dự thảo Luật vì nội dung của Điều này đã được quy định cụ thể trong các luật như Bộ luật Hình sự, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Luật Công an nhân dân, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Xử lý vi phạm hành chính...
Chính phủ đề nghị giữ nguyên quy định này của dự thảo Luật vì trường hợp công chức, viên chức, sĩ quan công an, quân đội trong quá trình thực hiện giám định tư pháp có vi phạm pháp luật về giám định tư pháp thì cũng cần có quy định về chế tài xử lý cụ thể tương ứng với hành vi vi phạm.













