Quốc hội Việt Nam hội tụ ý chí, niềm tin của dân tộc ta
Ra đời trong khói lửa của cuộc đấu tranh cách mạng, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) là thành quả, biểu tượng cao quý của độc lập dân tộc, thống nhất đất nước - nơi hội tụ, lan tỏa ý chí, niềm tin và sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc ta. Trải qua 76 năm hình thành và phát triển, ở mỗi giai đoạn cách mạng và từng nhiệm kỳ, Quốc hội ngày càng lớn mạnh, phát triển, không ngừng hoàn thiện về tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, hoàn thành tốt sứ mệnh lịch sử, nhiệm vụ cách mạng được Đảng, Nhân dân và cử tri tin tưởng giao phó; khẳng định vững chắc vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
GS.TS. VƯƠNG ĐÌNH HUỆ - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - 76 năm hình thành, đổi mới, sáng tạo và phát triển, nơi hội tụ ý chí, niềm tin của dân tộc
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền tảng, giá trị cốt lõi của Nhà nước ta, chế độ ta. Quốc hội là nơi hội tụ ý chí và niềm tin của cả dân tộc. Ngay từ Quốc hội khóa I, giá trị đó đã được khẳng định và thể hiện mạnh mẽ trong quá trình lựa chọn những đại biểu xứng đáng của nhân dân, cùng nhân dân vượt qua mọi gian khó, thách thức của những ngày đầu xây dựng Nhà nước. Ngay sau khi giành độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Cách mạng lâm thời ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị tiến hành cuộc Tổng tuyển cử. Người khẳng định: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì có quyền đi bầu cử,… Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân”[1]. Ngày 06/01/1946, hưởng ứng Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, tất cả các công dân từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam, nữ, giàu, nghèo, tôn giáo, náo nức tham gia cuộc Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[2]. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đánh dấu sự ra đời của Quốc hội Việt Nam, một thiết chế dân chủ, quan trọng trong Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đây là mốc son đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của nền dân chủ, biểu thị ý chí, niềm tin, sức mạnh của nhân dân trong bối cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, tạo cơ sở quan trọng để xây dựng Nhà nước và chế độ mới.
Bảy mươi sáu năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội Việt Nam không ngừng lớn mạnh, hoàn thiện cả về tổ chức, hoạt động, ngày càng thực hiện tốt hơn chức năng là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện các quyền lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Về hoạt động lập hiến: từ khi ra đời đến nay, Quốc hội đã xây dựng, ban hành 05 bản Hiến pháp: năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013. Đây là đạo luật cơ bản nhất của Nhà nước, kết tinh ý chí, nguyện vọng, trí tuệ và sự sáng tạo của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với việc quy định những vấn đề quan trọng về chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,…. các bản Hiến pháp ra đời đã tạo lập nền tảng chính trị, pháp lý cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước qua các giai đoạn lịch sử.
Về hoạt động lập pháp: đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong các nhiệm kỳ qua. Quốc hội không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, kịp thời thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp, bám sát yêu cầu của thực tiễn, phản ánh chân thực tiếng nói, ý nguyện của cử tri và nhân dân. Theo đó, ở mỗi nhiệm kỳ, Quốc hội ban hành khối lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật[3], tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc lập pháp, góp phần quan trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ bản bao phủ rộng khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội, như: xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học, công nghệ, môi trường, an ninh, quốc phòng, đối ngoại,… đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
Để pháp luật đi vào cuộc sống, các bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội được ban hành luôn dựa trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm các nước, đánh giá đầy đủ tác động của chính sách, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của hệ thống pháp luật. Đồng thời, không ngừng đổi mới, hoàn thiện quy trình lập pháp, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong thực hiện quy trình xây dựng luật, pháp lệnh. Qua đó, góp phần xây dựng và vận hành hệ thống pháp luật thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp điều kiện của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế số, đổi mới mạnh mẽ quản trị quốc gia trên nền tảng ứng dụng trí tuệ nhân tạo, xây dựng Chính phủ số, Quốc hội số, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng ngày nay.
Về hoạt động giám sát: Quốc hội không ngừng đổi mới, hoàn thiện nội dung, phương thức, hình thức giám sát. Qua mỗi nhiệm kỳ, Quốc hội luôn cẩn trọng, cân nhắc, lựa chọn các nội dung giám sát quan trọng, từ những vấn đề kinh tế vĩ mô đến các vấn đề dân sinh bức xúc, với nhiều hình thức phong phú, luôn bám sát và hướng vào giải quyết các yêu cầu của thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội. Các nghị quyết, kết luận, kiến nghị giám sát ngày càng sát, trúng trọng tâm. Hoạt động chất vấn của Quốc hội ngày càng đi vào chiều sâu, chất lượng; tinh thần xây dựng, trách nhiệm, tính dân chủ, công khai, tính tranh luận, đối thoại tăng lên rõ rệt qua từng nhiệm kỳ, kỳ họp. Việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong lựa chọn nhóm vấn đề là một trong những dấu ấn đổi mới quan trọng trong hoạt động chất vấn của các nhiệm kỳ gần đây. Thời gian cho hoạt động chất vấn được tăng thêm; các nội dung chất vấn đa dạng, tập trung vào các vấn đề nổi cộm, bức thiết trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, có tác động tích cực, rõ nét hơn trong đời sống kinh tế - xã hội, thu hút được sự quan tâm của nhân dân và cử tri cả nước. Hoạt động giám sát chuyên đề ngày càng thực hiện có hiệu quả, tạo hiệu ứng tích cực trong xã hội, tăng niềm tin của nhân dân, tạo sự chuyển biến rõ rệt trong quản lý nhà nước sau giám sát. Từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, việc lấy phiếu tín nhiệm được triển khai nghiêm túc theo đúng nội dung, quy trình, thủ tục; quy trình lấy phiếu tín nhiệm bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch để cử tri và nhân dân cả nước theo dõi, giám sát.
Trong các nhiệm kỳ gần đây, hoạt động sau giám sát được quan tâm, chú trọng, nhất là hoạt động xem xét việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn tại kỳ họp giữa nhiệm kỳ và kỳ họp cuối nhiệm kỳ, góp phần tích cực vào quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Điều đó càng khẳng định rõ giám sát là một trong các phương thức hữu hiệu để Quốc hội kiểm soát quyền hành pháp, tư pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước.
Về hoạt động quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng hiệu quả hơn. Các vấn đề hệ trọng về tổ chức bộ máy và nhân sự cấp cao của Nhà nước, về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại đều được Quốc hội thảo luận thận trọng, kỹ lưỡng. Các nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 05 năm và hằng năm, chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, các công trình quan trọng quốc gia, chính sách dân tộc, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phê chuẩn điều ước quốc tế,... đều phù hợp chủ trương, đường lối của Đảng và ý chí, nguyện vọng của nhân dân; được các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan và toàn dân nỗ lực triển khai thực hiện, góp phần tích cực tạo ra những thành quả quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế.
Về hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế: Ở mỗi giai đoạn lịch sử, Quốc hội luôn quán triệt, thực hiện nghiêm các nguyên tắc, phương châm, quan điểm chỉ đạo về đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Với tinh thần chủ động, tích cực, hoạt động đối ngoại của Quốc hội được phối hợp đồng bộ và hiệu quả với đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước, đối ngoại nhân dân, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trong thời kỳ đổi mới, hoạt động đối ngoại của Quốc hội ngày càng được đẩy mạnh và mở rộng trên cả bình diện song phương và đa phương[4], đưa ngoại giao nghị viện đi vào chiều sâu, làm cho thế giới, bạn bè quốc tế ngày càng hiểu biết đầy đủ, đúng đắn hơn về đất nước, con người và nền văn hóa Việt Nam; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của họ, góp phần nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam nói chung và Quốc hội Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế.
Về cơ cấu tổ chức: Quốc hội không ngừng củng cố, kiện toàn, đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ, phát huy đầy đủ trí tuệ, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Qua các nhiệm kỳ, cơ cấu đại biểu Quốc hội ngày càng phù hợp hơn về tỷ lệ, thành phần, có tính kế thừa, thể hiện được tính đại diện rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân. Tỷ lệ đại biểu phụ nữ, người dân tộc thiểu số, người trẻ tuổi tăng lên; chất lượng đại biểu Quốc hội từng bước được nâng cao, ngày càng khẳng định rõ vai trò là lực lượng nòng cốt trong các hoạt động của Quốc hội. Đặc biệt, việc tăng dần số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách qua các nhiệm kỳ[5] đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp trong hoạt động của Quốc hội.
Việc đổi mới và phát triển của Quốc hội luôn để lại những dấu ấn đậm nét trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, được đặt trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, đồng bộ với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. “Trải qua 76 năm, với 14 nhiệm kỳ hoạt động, bước sang nhiệm kỳ thứ 15, Quốc hội nước ta đã luôn luôn gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, không ngừng phát huy vai trò, vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, đóng góp to lớn và quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[6].
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện về tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội trong giai đoạn phát triển mới
Quốc hội khóa XV được cử tri cả nước bầu ra trong bối cảnh tình hình khu vực, thế giới diễn biến phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục có những điều chỉnh cả về mức độ và phương thức. Kinh tế thế giới có dấu hiệu phục hồi, tăng trưởng trở lại nhưng chưa vững chắc và không đồng đều; thương mại và đầu tư quốc tế suy giảm; nợ công toàn cầu tăng mạnh; thị trường hàng hóa, tài chính - tiền tệ tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đại dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, tác động tiêu cực, kéo dài đến kinh tế khu vực và thế giới, trong đó có nước ta, làm thay đổi cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị và đời sống kinh tế, xã hội toàn cầu, buộc nhiều nước phải thay đổi định hướng, chiến lược phát triển theo hướng đề cao tinh thần tự lực, tự cường, chú trọng đầu tư và phát triển thị trường nội địa. Ở trong nước, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực thi đua thực hiện mục tiêu kép và triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; kinh tế, xã hội tiếp tục đạt kết quả tích cực, an sinh phúc lợi xã hội và các cân đối lớn về tài chính, tiền tệ, tín dụng cơ bản được bảo đảm; sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản có mức tăng khá; tốc độ tăng trưởng các ngành công nghiệp đạt kết quả đáng khích lệ; quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; quan hệ đối ngoại tiếp tục được tăng cường, v.v. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn thấp hơn mục tiêu đề ra và còn nhiều khó khăn, thách thức do tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 bùng phát lần thứ tư lây lan nhanh ở nhiều tỉnh, thành phố, diễn biến phức tạp, khó kiểm soát và có thể còn kéo dài. Sản xuất kinh doanh, sinh kế, việc làm, đời sống của nhân dân, nhất là ở những vùng có dịch và những ngành, lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp của đại dịch gặp rất nhiều khó khăn.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong Hiến pháp, pháp luật; phát huy truyền thống 76 năm xây dựng và phát triển, kế thừa những kinh nghiệm, thành tựu của các khóa trước, Quốc hội nhận thức sâu sắc niềm tin, sự kỳ vọng của cử tri, thấy rõ những khó khăn, thuận lợi, thời cơ, đặc biệt trong bối cảnh đất nước đang đứng trước những thách thức chưa có tiền lệ; quán triệt sâu sắc ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng[7], tiếp tục phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, gần dân, trọng dân, cầu thị, lắng nghe ý kiến của nhân dân. Phát huy tối đa năng lực, bản lĩnh, trí tuệ, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, bám sát thực tiễn nhằm tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, ban hành quyết sách đúng đắn, kịp thời, hợp lòng dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Trong hoạt động lập pháp:Quán triệt sâu sắc, thể chế hóa kịp thời Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Quốc hội cần không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong thực hiện quy trình lập pháp, xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững. Trong đó, trọng tâm là:
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xác định rõ hơn vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền; bảo đảm quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát chặt chẽ. Thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, tăng tính dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế giám sát, đánh giá đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân với kiểm tra, giám sát của Đảng, với giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp; xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, đẩy mạnh cải cách tư pháp; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tăng cường trật tự, kỷ cương xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật nhằm ghi nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện cơ sở pháp lý để thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ cơ sở. Xây dựng cơ chế pháp lý để thực hiện tốt, có hiệu quả nội dung mới được bổ sung tại Đại hội XIII của Đảng “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện cơ sở pháp lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ và những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng pháp luật để phát huy đổi mới sáng tạo, tận dụng tối đa lợi thế và giảm thiểu tối đa rủi ro, chú trọng giải quyết hiệu quả hàng loạt các vấn đề đặt ra trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng các “sandbox” về mô hình đầu tư kinh doanh mới, trong đó có mô hình kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, du lịch thông minh, v.v. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng và bố trí nguồn lực nhằm phát huy lợi thế vùng, nhất là các vùng kinh tế động lực. Hoàn thiện pháp luật để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển, nhất là đất đai, tài nguyên, bảo đảm công khai, minh bạch và khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tham nhũng, lãng phí. Đẩy nhanh hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách bảo đảm đồng bộ, minh bạch các yếu tố thị trường để có khả năng vốn hóa, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài nguyên. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội, phát triển văn hóa, xây dựng con người với bảo vệ môi trường. Hoàn thiện các lĩnh vực pháp luật về văn hóa, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, khoa học, công nghệ, môi trường, v.v. Hoàn thiện pháp luật nhằm tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Nội luật hóa đầy đủ, phù hợp những điều ước và cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tích cực và có trách nhiệm trong tham gia các hoạt động xây dựng các điều ước quốc tế; chủ động chuyển từ việc tham gia các định chế quốc tế đã có thành chủ động tham gia xây dựng các định chế quốc tế mới.
Tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp, mở rộng dân chủ trong xây dựng pháp luật để các quy định của luật có tính khả thi, phù hợp với thực tiễn, có căn cứ khoa học. Bảo đảm công khai, dân chủ trong tiếp nhận, giải trình, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xây dựng và thẩm tra luật; huy động trí tuệ, tăng cường sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, đối tượng chịu tác động trực tiếp của dự án luật và nhân dân trong quá trình lập pháp. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với thi hành pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan: ban hành pháp luật, thi hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật; cải cách thủ tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian trong thi hành pháp luật.
Trong hoạt động giám sát:Tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh công tác giám sát, coi đây là một trong những khâu trọng tâm, then chốt để góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin để đổi mới phương thức, hình thức giám sát phù hợp với yêu cầu mới. Tiếp tục đổi mới phương thức, cách thức tổ chức chất vấn và trả lời chất vấn, tăng cường hoạt động chất vấn ở Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hoạt động giải trình ở Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội. Chú trọng giám sát việc thực thi pháp luật và thực hiện các kiến nghị sau giám sát, gắn với trách nhiệm giải trình của tổ chức, cá nhân có liên quan, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Tăng cường giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân và kiến nghị của cử tri. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện và tổ chức tốt việc lấy phiếu tín nhiệm đối với những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, theo định hướng Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Trong hoạt động quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước:Không ngừng đổi mới phương thức hoạt động và nâng cao chất lượng quyết định các vấn đề về mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội; chủ trương đầu tư các chương trình, mục tiêu quốc gia, các dự án quan trọng quốc gia, v.v. Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương gắn với trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực tài chính - ngân sách. Nâng cao chất lượng quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; tiếp tục tăng cường đối ngoại của Quốc hội gắn chặt với hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, tiếp tục nâng cao uy tín Quốc hội và vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội các nước trên thế giới nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong tổ chức, hoạt động của Quốc hội. Tiếp tục đổi mới và tăng cường hoạt động tiếp xúc cử tri, lắng nghe ý kiến, gắn bó chặt chẽ với cử tri; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của Quốc hội.
Chặng đường 76 năm qua, cùng với sự phát triển và hoàn thiện hệ thống chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước nói chung, Quốc hội các khóa đã không ngừng lớn mạnh, đổi mới và hoàn thiện về tổ chức, phương thức làm việc, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và năng lực hoạt động của từng đại biểu. Tại phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Những thành tựu đạt được của Quốc hội nước ta trong 75 năm qua bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng - nhân tố quyết định để Quốc hội hoàn thành xuất sắc trọng trách mà Nhân dân giao phó”. Quốc hội là nơi hội tụ ý chí, niềm tin của dân tộc ta, đã và đang vững vàng tiếp bước những trang sử vẻ vang, không ngừng lớn mạnh, phát triển, để lại những dấu ấn quan trọng, xây dựng vị thế vững chắc trong lòng nhân dân, ngày càng khẳng định, phát huy vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Với tinh thần đoàn kết, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, tận dụng thời cơ, phát huy thế mạnh, nỗ lực vượt khó, chúng ta tin tưởng Quốc hội khóa XV sẽ tiếp tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cách mạng trước Đảng, nhân dân, cử tri cả nước; thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp năm 2013, góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, thực sự là Quốc hội của Nhân dân, vì Nhân dân, xứng đáng với niềm tin, kỳ vọng của Nhân dân và cử tri cả nước./.
___________________________________________
[1]- Hồ Chí Minh -Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H.2011, tr.153.
[2] - Với trên 80% cử tri tham gia bầu cử, nhân dân ta đã bầu được 333 đại biểu Quốc hội. Trong đó có: 57% thuộc các đảng phái khác nhau, 43% không thuộc đảng phái nào; 87% đại biểu là công nhân, nông dân và chiến sĩ cách mạng, 10 đại biểu là phụ nữ và 34 đại biểu là người dân tộc thiểu số.
[3] - Chỉ riêng giai đoạn 5/2005 - 6/2021, Quốc hội đã ban hành 300 văn bản luật.
[4] - Nổi bật là: Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU), Đại hội đồng Liên Nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA), Liên minh Nghị viện Pháp ngữ (APF), Diễn đàn Nghị sĩ châu Á - Thái Bình Dương (APPF), Hội nghị Đối tác Nghị viện Á - Âu (ASEP), v.v.
[5] - Quốc hội khóa XIV có 167 đại biểu chuyên trách, chiếm 34,5% tổng số đại biểu Quốc hội; Quốc hội khóa XV có 193 đại biểu chuyên trách, chiếm 38,68% tổng số đại biểu Quốc hội.
[6] - Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên Khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV, ngày 20/7/2021.
[7] - Tại phiên Khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV, ngày 20/7/2021.