Quy chế quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Thủ đô
Hà Nội đang lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo Quyết định của UBND TP Hà Nội về Ban hành Quy chế quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KHCN) của Thủ đô.
Luật Thủ đô 2024:

Đưa các mẫu thực phẩm qua máy để phân tích các chỉ số thuộc nhóm bảo vệ thực vật. Ảnh N.M
Mục tiêu phát triển trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
Hà Nội là Thủ đô - Trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, một động lực phát triển của vùng đồng bằng Sông Hồng và cả nước. Hà Nội dẫn đầu cả nước về Chỉ số đổi mới sáng tạo địa phương (PII) năm 2023 và 2024, số lượng công bố quốc tế, số đơn đăng ký sáng chế/giải pháp hữu ích. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào GRDP đạt bình quân trên 50%, cao hơn mức trung bình cả nước.
Tuy nhiên, hoạt động KHCN của Thủ đô hiện nay còn tồn tại một số điểm nghẽn: tốc độ bứt phá về phát triển KHCN còn chậm; quy mô, tiềm lực, trình độ KHCN còn khoảng cách xa so với nhóm các nước phát triển; chưa khai thác hết tiềm lực KHCN từ T.Ư và các trường Đại học trên địa bàn; nghiên cứu, ứng dụng KHCN chưa làm chủ được công nghệ chiến lược, công nghệ lõi; cơ chế, chính sách chưa đáp ứng yêu cầu, định mức chi và tỷ lệ đầu tư, tỷ lệ giải ngân cho KHCN còn thấp; kết nối nghiên cứu khoa học với thị trường và DN còn yếu; chưa có giải pháp để khơi thông nguồn lực ngoài ngân sách Nhà nước để đầu tư cho phát triển KHCN; nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu; hạ tầng KHCN chưa đồng bộ, hệ thống dữ liệu thiếu đầy đủ, phân tán, chưa thực sự trở thành tài nguyên, nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô; hệ thống ươm tạo, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo còn thiếu kết nối, thiếu cơ chế vận hành chuyên nghiệp; hợp tác "ba nhà" (Nhà nước – nhà khoa học – DN) còn chưa chặt chẽ, thiếu các dự án mang tính liên ngành, liên lĩnh vực quy mô lớn.
Xuất phát từ thực tiễn triển khai và kết quả đạt được của hoạt động phát triển KHCN của TP giai đoạn vừa qua, sự cần thiết triển khai thực hiện các chủ trương, định hướng, mục tiêu phát triển KHCN của T.Ư về “xây dựng và phát triển Thủ đô thực sự xứng đáng là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trái tim của cả nước; trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục và đào tạo, KHCN và hội nhập quốc tế”, “tập trung ưu tiên hoàn thiện thể chế phát triển Thủ đô toàn diện, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế”, “thể chế là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi trước một bước”, xác định “phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong Kỷ nguyên mới”, yêu cầu “tiếp tục thể chế hóa đầy đủ và thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành T.Ư Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về phát triển giáo dục và đào tạo; KHCN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia”, cũng như hướng tới các mục tiêu phát triển của TP trong lĩnh vực KHCN.
Đến năm 2030: tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân từ 2 con số; kinh tế số đạt 40% GRDP; tỷ lệ đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt trên 55%; tỷ lệ chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) chiếm 2% GRDP; tỷ trong kinh phí từ xã hội trên kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) chiếm 60%; chi ngân sách hằng năm cho phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đạt từ 3% tổng chi ngân sách Nhà nước trở lên; số lượng công bố khoa học quốc tế tăng trung bình 10% năm; số lượng đơn đăng ký sáng chế tăng trung bình 16 - 18%/năm.
Xếp hạng về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo, trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số có lợi thế thuộc nhóm 5 tỉnh/TP dẫn đầu cả nước; có 8 - 10 tổ chức KHCN trên địa bàn TP được xếp hạng khu vực và thế giới; luôn dẫn đầu cả nước về chỉ số Đổi mới sáng tạo cấp tỉnh (PII); xây dựng và triển khai đề án thu hút ít nhất 200 chuyên gia nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài hợp tác, làm việc với TP Hà Nội. Để đạt được mục tiêu trên, HĐND TP đã ban hành các Nghị quyết quy định chính sách phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo của TP. Trong đó, ngoài nội dung ban hành Quy chế quản lý nhiệm vụ KHCN của Thủ đô quy định tại Luật Thủ đô 2024, HĐND TP cũng giao UBND TP quy định chi tiết trình tự, thủ tục, tiêu chí áp dụng chính sách.
Khuyến khích hoạt động khoa học và công nghệ trong doanh nghiệp
Quy chế này được ban hành dựa theo căn cứ khoản 1 Điều 23 Luật Thủ đô 2024; Nghị quyết của HĐND TP Hà Nội quy định chi tiết một số chính sách đặc thù phát triển KHCN TP Hà Nội; Nghị quyết của HĐND TP Hà Nội quy định một số chính sách phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ có sử dụng ngân sách TP Hà Nội và các Luật, Nghị định liên quan.
Dự thảo Quy chế quản lý nhiệm vụ KHCN của Thủ đô gồm 10 chương, 62 Điều. Trong đó, chương I quy định phạm vi, đối tượng áp dụng và giải thích từ ngữ. Nổi bật là nhiệm vụ KHCN của Thủ đô bao gồm nhiệm vụ sử dụng ngân sách TP (trọng điểm và khác), xã/phường, cơ sở; và nhiệm vụ không sử dụng ngân sách được công nhận trọng điểm.
Chương II về quản lý nhiệm vụ KHCN TP đặt hàng. Cụ thể, quy định toàn diện từ đề xuất đầu vào đến thanh lý hợp đồng, với 6 mục chính như: quy định chung về nhiệm vụ KHCN TP đặt hàng; đặt hàng nhiệm vụ; tuyển chọn, giao trực tiếp; đánh giá định kỳ, cấp tiếp kinh phí, điều chỉnh hợp đồng; đánh giá cuối kỳ, đánh giá hiệu quả đầu ra; chấm dứt thực hiện và thanh lý hợp đồng. Chương III về quản lý nhiệm vụ KHCN TP tài trợ gồm: đề xuất (phù hợp tiêu chí Chương II), trình tự xét (thông báo định hướng, lập hồ sơ tương tự đặt hàng, qua Hội đồng xét tài trợ/Tổ thẩm định). Chương III có điểm mới là hình thức tài trợ bổ sung linh hoạt cho tổ chức/cá nhân đề xuất, không thuộc tổ chức đặt hàng; quản lý tương tự Chương II (đánh giá, điều chỉnh, chấm dứt), nhấn mạnh cam kết ứng dụng.
Chương IV về công nhận nhiệm vụ KHCN trọng điểm đối với nhiệm vụ không sử dụng ngân sách TP, trong đó nêu về điều kiện, trình tự (nộp hồ sơ, Hội đồng công nhận, quyết định trong 7 ngày nếu đủ điều kiện). Chương này có điểm mới là bổ sung cơ chế công nhận để khuyến khích hoạt động KHCN trong DN, từ đó góp phần tăng tỷ lệ chi cho KHCN trong GRDP, góp phần nâng cao hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo trong khu vực kinh tế tư nhân. Chương V về quản lý nhiệm vụ KHCN xã, phường đặt hàng gồm: yêu cầu (phù hợp địa phương, giải quyết vấn đề cơ sở), căn cứ (chỉ đạo cấp xã), trình tự (UBND cấp xã chủ động, Hội đồng tư vấn), điều kiện tổ chức/cá nhân (tương tự TP). Điểm mới là tăng tính địa phương hóa, linh động rút gọn thời gian phù hợp cấp bách; đánh giá/thanh lý tương tự nhưng do UBND cấp xã quyết định.
Dự kiến kinh phí phục vụ triển khai thực hiện Quy chế quản lý nhiệm vụ KHCN cấp TP được đảm bảo từ Ngân sách TP và các nguồn hợp pháp khác.
Luật Thủ đô 2024 có rất nhiều nội dung quan trọng, đặc thù. Cụ thể, các tổ chức KHCN được nhận hỗ trợ từ ngân sách TP để mua sắm, vận hành máy móc, thiết bị phục vụ thực hiện nhiệm vụ. Thu nhập từ việc thực hiện nhiệm vụ KHCN trọng điểm của Thủ đô là thu nhập không chịu thuế thu nhập cá nhân. DN, tổ chức KHCN, cơ quan quản lý Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập được nhận chuyển giao không bồi hoàn tài sản, kết quả, sản phẩm hình thành từ nhiệm vụ KHCN sử dụng ngân sách TP.
Đại biểu Quốc hội Phan Xuân Dũng - Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam












