Quy định miễn tiền sử dụng đất có gì mà loạt địa phương kiến nghị sửa?

Nhiều ý kiến từ các bộ, ngành và địa phương đã được gửi tới Bộ Tài chính, đề nghị làm rõ và hoàn thiện các quy định về miễn, giảm tiền sử dụng đất.

Bộ Tài chính vừa công bố bản tổng hợp ý kiến, tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý, phản biện xã hội về dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2024 quy định về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và Nghị định số 104/2024 quy định về quỹ phát triển đất của Chính phủ.

Trong đó, nhiều ý kiến đóng góp từ các bộ, ngành và địa phương đề nghị làm rõ và hoàn thiện các quy định về miễn, giảm tiền sử dụng đất.

Theo UBND tỉnh Nghệ An, dự thảo cần bổ sung quy định cụ thể về hồ sơ miễn, giảm tiền sử dụng đất cho người có công với cách mạng, thực hiện theo đúng pháp luật về quản lý thuế.

Bộ Tài chính đã tiếp thu và sẽ sửa đổi theo hướng bổ sung nội dung: “Việc miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với người có công với cách mạng chỉ được thực hiện khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc cho phép miễn, giảm tiền sử dụng đất theo pháp luật về người có công”.

Kiểm toán Nhà nước cũng đề nghị mở rộng đối tượng xem xét bao gồm cả “thân nhân của người có công với cách mạng” cho phù hợp với đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi theo quy định của Pháp lệnh ưu đãi người có công.

Bộ, ngành, địa phương góp ý dự thảo Nghị định 103 cần quy định rõ thẩm quyền, cơ quan quyết định cho tổ chức, cá nhân đủ điều kiện được miễn tiền sử dụng đất. Ảnh minh họa

Bộ, ngành, địa phương góp ý dự thảo Nghị định 103 cần quy định rõ thẩm quyền, cơ quan quyết định cho tổ chức, cá nhân đủ điều kiện được miễn tiền sử dụng đất. Ảnh minh họa

Trong khi đó, Sở Tài chính Sơn La đề nghị bổ sung đối tượng áp dụng là người nghèo, hộ nghèo không phải là đồng bào dân tộc thiểu số, thống nhất với nội dung được quy định tại Điều 18, Điều 19 Nghị định số 103/2024. Đồng thời, làm rõ thêm đối với trường hợp sinh sống tại nơi có đất nhưng chưa chuyển đổi thành đất ở.

Bộ Tài chính đã tiếp thu góp ý này và hoàn thiện khoản 1 Điều 17 Nghị định 103.

Tuy nhiên, Sở Tài chính Cao Bằng đề nghị làm rõ nội dung “chỉ áp dụng đối với đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại nơi có đất”. Đồng thời, đề nghị quy định rõ nội dung “sinh sống tại nơi có đất” được xác định theo hộ khẩu thường trú hay cả trường hợp tạm trú? Nơi có đất được xác định theo đơn vị hành chính cấp xã hay cấp tỉnh (theo chính quyền địa phương hai cấp).

Bên cạnh đó, Sở Tài chính Thái Bình (cũ) đề nghị, tách rõ trường hợp miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với người dân phải di dời khi Nhà nước thu hồi đất do có nguy cơ đe dọa tính mạng và trường hợp thu hồi đất gắn liền với nhà ở nhưng không đủ điều kiện bồi thường.

Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam cũng đề nghị duy trì cơ chế miễn tiền sử dụng đất đối với trường hợp người bị thu hồi đất ở thuộc hộ nghèo và không có chỗ ở nào khác.

Bộ Tài chính cho biết, khoản 1 Điều 157 Luật Đất đai và Nghị định số 103/2024 đã quy định về việc miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với hộ nghèo. Tiếp thu ý kiến của Bộ, địa phương tại dự thảo Nghị định sửa đổi mức ưu đãi tiền sử dụng đất đối với trường hợp người bị thu hồi đất ở, không có chỗ ở nào khác là để đảm bảo công bằng giữa các trường hợp nhà nước thu hồi đất.

Đề nghị quy định rõ thẩm quyền

Về thẩm quyền, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị, sửa đổi, bổ sung điểm c1 quy định rõ cơ quan quản lý nhà nước về thuế có trách nhiệm xác định người sử dụng đất thuộc đối tượng được miễn tiền sử dụng đất để làm cơ sở cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đề nghị không giao cơ quan quản lý đất đai chủ trì việc kiểm tra, rà soát điều kiện miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. Thay vào đó, cần quy định rõ để cơ quan thuế chủ trì thực hiện, áp dụng thống nhất cho cả các trường hợp miễn, giảm tiền thuê đất.

Phản hồi góp ý này, Bộ Tài chính cho biết, tại khoản 3 Điều 157 Luật Đất đai quy định người sử dụng đất được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất không phải thực hiện thủ tục đề nghị miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất.

Tuy nhiên, để xác định người sử dụng đất có thuộc diện được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất hay không thì ngay từ thời điểm ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất đã phải làm rõ lý do và diện tích đất được miễn. Đây là cơ sở để theo dõi và tính nghĩa vụ tài chính về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. Điều này đặc biệt quan trọng với trường hợp thuê đất trả tiền hằng năm nhưng chỉ được miễn trong một số năm.

Cơ quan thuế căn cứ hồ sơ địa chính do cơ quan có chức năng quản lý đất đai chuyển đến để thực hiện việc xác định nghĩa vụ tài chính. Do vậy, tại thời điểm giao đất, cho thuê đất (hồ sơ chưa được luân chuyển sang cơ quan thuế), cơ quan thuế không thể xác định được người sử dụng đất có thuộc đối tượng miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất hay không.

Tương tự, UBND tỉnh Lạng Sơn và Sở Tài chính Thái Bình cũng đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 18 Nghị định số 103/2024 theo hướng: Quy định rõ thẩm quyền, cơ quan quyết định cho tổ chức, cá nhân đủ điều kiện được miễn tiền sử dụng đất và việc xác định miễn bằng quyết định hoặc văn bản hành chính để các địa phương thống nhất trong thực hiện.

Theo Bộ Tài chính, dự thảo đã sửa đổi quy định theo hướng cơ quan, người có thẩm quyền quyết định giao đất (chủ tịch UBND các cấp) ra quyết định miễn tiền sử dụng đất; hình thức văn bản do cơ quan, người có thẩm quyền quyết định.

Nguyễn Lê

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/quy-dinh-mien-tien-su-dung-dat-co-gi-ma-loat-dia-phuong-kien-nghi-sua-2436212.html