Quy mô nhỏ, cản ngại lớn
Thời gian qua, hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp (M&A) diễn ra tương đối sôi động ở Việt Nam, tuy nhiên, nhìn chung quy mô vẫn còn nhỏ. Phải làm gì để thúc đẩy M&A mạnh mẽ hơn nữa, góp phần tích cực vào tái cơ cấu doanh nghiệp nói riêng, tái cơ cấu nền kinh tế nói chung? Phóng viên Báo Năng lượng Mới đã có cuộc trao đổi với ông Đặng Xuân Minh, Tổng giám đốc Công ty AVM chuyên về tư vấn và xúc tiến đầu tư, Phó trưởng ban tổ chức Diễn đàn Mua bán - sáp nhập doanh nghiệp Việt Nam 2019 (M&A Vietnam Forum 2019) sẽ diễn ra vào đầu tháng 8-2019.
Sân chơi cho nhà đầu tư nước ngoài
PV: Ông đánh giá thế nào về hoạt động M&A tại Việt Nam thời gian qua?
Ông Đặng Xuân Minh: Năm 2017 vẫn để lại dư vị ngọt ngào với “vị men đặc biệt của Bia Sài Gòn” khi thương vụ M&A ThaiBev - Sabeco thành công với giá trị 4,8 tỉ USD, chiếm gần 50% tổng giá trị M&A của cả năm 2017 và bằng 86,2% tổng giá trị của tất cả các thương vụ M&A của năm 2016. Sự thành công của thương vụ Sabeco là một bước ngoặt lớn, nhưng chưa đem lại sự lạc quan cho toàn bộ thị trường M&A. Tổng giá trị M&A tại Việt Nam năm 2018 đạt 7,64 tỉ USD, bằng 74,9% so với năm 2017. Nếu loại bỏ đóng góp của thương vụ M&A kỷ lục Sabeco, yếu tố gây đột biến cho M&A tại Việt Nam năm 2017, thì giá trị M&A năm 2018 tại Việt Nam chỉ tăng 41,4%. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2019, tổng giá trị các thương vụ M&A được công bố tại Việt Nam chỉ đạt 1,9 tỉ (bằng 53% so với 3,55 tỉ USD của cùng kỳ năm 2018).
PV: Quy mô các thương vụ M&A tại Việt Nam so với thế giới hoặc khu vực Đông Nam Á thế nào, thưa ông?
Ông Đặng Xuân Minh: Xét về quy mô thương vụ, thị trường M&A Việt Nam vẫn chủ yếu là các giao dịch nhỏ với quy mô 5-6 triệu USD (tương đương 100-120 tỉ VND). Các giao dịch quy mô nhỏ chiếm tới trên 90% số lượng thương vụ M&A. Nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong các thương vụ M&A quy mô vừa và lớn từ 20-100 triệu USD. Tỷ trọng các thương vụ M&A quy mô vừa có xu hướng gia tăng trong vài năm qua.
Những trở ngại lớn được coi là nguyên nhân khiến cho các thương vụ M&A không thành công: Tỷ lệ sở hữu cổ phần Nhà nước đang quá lớn (85%), báo cáo tài chính và công bố thông tin chưa minh bạch (80%), định giá quá cao (76%), thời gian thực hiện thương vụ quá dài (75%).
Những thương vụ M&A siêu lớn đã xuất hiện tại Việt Nam, dù chỉ 1-2 thương vụ mỗi năm nhưng đóng góp tỷ trọng đáng kể vào kết quả M&A chung của thị trường. Giai đoạn 2018-2019, 30 thương vụ lớn nhất đã chiếm đến 70% tổng giá trị M&A của thị trường Việt Nam. Thống kê năm 2018 cho thấy, hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều sụt giảm về giá trị M&A, Việt Nam xếp thứ 2 về giá trị M&A chỉ sau Thái Lan (9,3 tỉ USD), xếp trên Singapore (6,7 tỉ USD), Malaysia (5,1 tỉ USD), Indonesia (2,8 tỉ USD).
PV: Theo ông, những lĩnh vực nào có hoạt động M&A mạnh nhất trong thời gian qua?
Ông Đặng Xuân Minh: Nếu năm 2016 là năm lên ngôi của lĩnh vực bán lẻ với các thương vụ mua lại các chuỗi phân phối, thì năm 2017, lĩnh vực có tỉ trọng giá trị M&A lớn nhất là sản xuất hàng tiêu dùng (57%), tiếp theo là bất động sản (27%), tài chính - ngân hàng (4%), vật liệu hóa chất (3%). Trong giai đoạn từ tháng 7-2018 đến tháng 7-2019, M&A của các công ty hoạt động đa ngành chiếm 19,67%, bất động sản - xây dựng 19,98%, sản xuất hàng tiêu dùng 10,53%.
Đáng chú ý, việc mua lại những công ty sản xuất, kinh doanh hàng tiêu dùng (đồ uống, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu...) không chỉ mua thương hiệu và còn mua cả mạng lưới phân phối để tiếp cận thị trường. Trong lĩnh vực ngân hàng, các giao dịch tập trung vào mua lại các công ty tài chính tiêu dùng, quản lý thẻ, dịch vụ tài chính. Các giao dịch trong lĩnh vực bất động sản hướng tới các dự án bất động sản ở khu vực thành thị lớn hoặc đô thị mới phát triển, các dự án nghỉ dưỡng, các khách sạn ở vị trí trung tâm...
PV: Trong thực tế, thị trường M&A Việt Nam đang được dẫn dắt bởi các nhà đầu tư nước ngoài trong khi các nhà đầu tư trong nước dường như đứng ngoài “cuộc chơi”?
Ông Đặng Xuân Minh: Đúng là thị trường M&A Việt Nam đang được dẫn dắt bởi các nhà đầu tư ngoại, tập trung vào 4 quốc gia là Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc và Nhật Bản. Năm 2017, giá trị thương vụ M&A do nhà đầu tư nước ngoài đóng vai trò bên mua chiếm tới 91,8%, trong khi nhà đầu tư trong nước chỉ chiếm 8,2%. Năm 2018, tỷ trọng giá trị các thương vụ M&A do các doanh nghiệp (DN) Việt Nam thực hiện tăng lên chút ít, ở mức 11,8%.
Những trở ngại lớn
PV: Theo ông, nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng thị trường M&A Việt Nam vẫn chưa được như mong đợi?
Ông Đặng Xuân Minh: Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại trong M&A là về định giá và chiến lược hậu M&A. Bên cạnh những tập đoàn đạt được thành công và tạo được giá trị cộng hưởng nhờ M&A, một số tập đoàn tích cực thực hiện M&A trong giai đoạn trước, nhưng về sau không lường trước được hậu quả cũng như không quản lý được DN mục tiêu nên trong giai đoạn 2017-2018 đã phải tiến hành thoái vốn để trở lại ngành nghề cốt lõi hoặc để có nguồn trả nợ ngân hàng. Những rủi ro trong khâu thực hiện chiến lược M&A, định giá, tuân thủ pháp lý và rủi ro nhân sự cũng là điển hình, như thương vụ như Mobifone - AVG, Cảng Quy Nhơn...
PV: Ông có thể phân tích một số thương vụ M&A thất bại điển hình?
Ông Đặng Xuân Minh: Ví dụ vụ An Quý Hưng - Vinaconex. Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) cuối năm bán ra 255 triệu cổ phần Vinaconex (57,71% vốn), chính thức rút khỏi Vinaconex. Nhà đầu tư trả giá cao nhất là Công ty TNHH An Quý Hưng. Tổng giá trị thương vụ lên tới 7.367 tỉ đồng. An Quý Hưng đã trúng đấu giá cổ phần khi chi cao hơn 2.000 tỉ đồng so với mức giá khởi điểm của SCIC. Sau thương vụ, nhóm An Quý Hưng chính thức nắm quyền chi phối Vinaconex. Tuy nhiên việc tiếp quản và tái cơ cấu cũng gặp phải những trở ngại. Nhóm cổ đông lớn còn lại không thống nhất và có khiếu kiện liên quan đến nội bộ DN. M&A coi như thất bại.
Hay vụ Vinalines - Cảng Quy Nhơn - Khoáng sản Hợp Thành. Qua thanh tra toàn diện việc cổ phần hóa cảng Quy Nhơn, Thanh tra Chính phủ kết luận việc Bộ Giao thông Vận tải cho phép Vinalines chuyển nhượng 75,01% cổ phần (đợt 2 và đợt 3) thuộc sở hữu Nhà nước theo phương thức thỏa thuận trực tiếp khi không báo cáo và chưa được Thủ tướng cho phép là trái thẩm quyền, vi phạm quy định của pháp luật, nên phải thu hồi về thuộc sở hữu Nhà nước. Đầu năm 2019, hai bên liên quan đã phải thực hiện toàn bộ thủ tục để quyền sở hữu Cảng Quy Nhơn về lại Vinalines. Đây cũng là thương vụ M&A thất bại.
PV: Nguyên nhân khiến các M&A thất bại, thị trường M&A trong nước có nhiều cản ngại là gì, thưa ông?
Ông Đặng Xuân Minh: Theo tôi có 8 trở ngại được coi là nguyên nhân khiến cho các thương vụ M&A không thành công hay khiến thị trường M&A khó khăn là: Tỷ lệ sở hữu cổ phần Nhà nước đang quá lớn (85%), báo cáo tài chính và công bố thông tin chưa minh bạch (80%), định giá quá cao (76%), thời gian thực hiện thương vụ quá dài (75%). Các yếu tố khác lần lượt là: Yếu tố văn hóa và sự thay đổi; không có nhiều cơ hội chất lượng; khó tiếp cận DN; ngoại ngữ.
Một điểm đáng chú ý là 8/8 yếu tố này đều liên quan đến Nhà nước và khu vực doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), 6/8 yếu tố này liên quan đến khu vực DN tư nhân. Các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý, các chủ DN Việt Nam cần suy nghĩ và tìm giải pháp để giải tỏa các rào cản này.
PV: Ông có thể phân tích kỹ hơn một vài nguyên nhân chính?
Ông Đặng Xuân Minh: Ví dụ như việc Nhà nước muốn nắm giữ cổ phần ở mức cao. Ngoài các DNNN cổ phần hóa, nơi cổ đông Nhà nước vẫn muốn nắm giữ và thoái vốn từng phần hoặc chưa thực hiện kế hoạch thoái vốn, nhiều DN tư nhân lớn vẫn chưa thoát khỏi tâm lý không muốn bán hết DN. Trong khi đó, các nhà đầu tư nước ngoài muốn nắm tỷ lệ cổ phần chi phối để có thể chủ động trong các hoạt động kinh doanh. Tỷ lệ vốn Nhà nước trong phương án cổ phần hóa DNNN còn cao, giảm sức hút đối với các nhà đầu tư, ảnh hưởng đến thành công của cổ phần hóa.
Một nguyên nhân khác: Báo cáo tài chính và công bố thông tin chưa minh bạch. Đây là vấn đề lớn nhất ảnh hưởng đến thu hút vốn ngoại. Hiện nay, nhiều DN Việt Nam vẫn còn hình thức kế toán hai sổ khiến các nhà đầu tư e ngại về tính chính xác của các con số tài chính. Ngoài ra, việc tiếp cận thông tin về đối tượng tiềm năng cũng khá khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Định giá quá cao cũng khiến cho thị trường M&A có nhiều cản ngại, vì theo đánh giá của nhiều nhà đầu tư nước ngoài, các DN Việt Nam định giá quá cao khi bán hoặc kêu gọi vốn, ảnh hưởng lớn đến sự thành công của thương vụ M&A khi hai bên không thống nhất được giá. Năm 2018, một số thương vụ thoái vốn DNNN đã không thành công, ngoài yếu tố chất lượng DN, yếu tố định giá quá cao cũng là nguyên nhân quan trọng.
PV: Vậy theo ông, chúng ta phải thay đổi như thế nào để hoạt động M&A sôi động hơn, hiệu quả hơn, góp phần tích cực vào quá trình tái cơ cấu nền kinh tế?
Ông Đặng Xuân Minh: Theo tôi, phải thoái vốn quyết liệt và mạnh mẽ hơn. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy các tập đoàn tư nhân, DN cần minh bạch và công bố thông tin đầy đủ, tốt hơn. Cần thay đổi và hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách.
Chúng tôi kiến nghị mỗi năm Nhà nước cần đặt mục tiêu thoái vốn tại 1-2 DN lớn, có tính chất dẫn dắt thị trường. Bởi thị trường M&A Việt Nam cần có thêm những nguồn hàng tốt hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Hệ thống pháp lý liên quan đến M&A cần được hoàn thiện, tháo dỡ các rào cản về giới hạn sở hữu cho nhà đầu tư, quy hoạch, thuế...
PV: Cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!
Nhiều cơ hội mới cho thị trường M&A
Sau một thập niên tăng trưởng mạnh mẽ với hàng nghìn giao dịch và tổng giá trị các thương vụ đạt gần 50 tỉ USD, thị trường M&A Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới với nhiều cơ hội mới.
6 tháng đầu năm 2019, tăng trưởng GDP ước đạt 6,76%, tuy thấp hơn so với cùng kỳ năm trước nhưng vẫn cao hơn mức tăng trưởng của 6 tháng các năm từ 2011-2017. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều yếu tố bất định, tăng trưởng GDP của nhiều nền kinh tế có dấu hiệu giảm tốc, đây vẫn là một mức tăng trưởng khá. Việt Nam vẫn thuộc top đầu các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao trong nửa đầu năm 2019.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 1-1-2019 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021 được ban hành đồng thời với Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 1-1-2019 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2019. Đây là những nghị quyết quan trọng, có ý nghĩa then chốt tác động đến hoạt động đầu tư, sản xuất - kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong thu hút đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu tư theo hình thức M&A.
Bên cạnh đó, việc Hiệp định Ðối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức có hiệu lực từ đầu năm 2019 và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) mới được ký kết đã và đang tạo ra sức hút mới cho đầu tư nước ngoài. Việc Việt Nam đã và sẽ tham gia vào nhiều FTA thế hệ mới sẽ tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu và thúc đẩy dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, thúc đẩy hoạt động M&A tăng trưởng đột phá.
Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, trong đó có đẩy mạnh tái cơ cấu DNNN. Theo đó, kiên quyết cổ phần hóa, bán vốn tại những DN mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối, kể cả những DN đang kinh doanh có hiệu quả.
Bên cạnh đó, xác định khu vực tư nhân là động lực tăng trưởng của nền kinh tế, Chính phủ Việt Nam đang xây dựng các cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tham gia vào quá trình tái cơ cấu DNNN thông qua việc góp vốn, mua cổ phần; thúc đẩy liên kết theo chuỗi giá trị giữa DNNN và DN tư nhân...
Để tạo thuận lợi cho khu vực tư nhân phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang chủ trì xây dựng, dự kiến trình Quốc hội thông qua Luật Đầu tư sửa đổi, Luật Doanh nghiệp sửa đổi, Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP)…
Cùng với đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ Đề án “Định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài đến năm 2030”, gọi tắt là Chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài thế hệ mới.
Ngoài định hướng chiến lược mới trong thu hút đầu tư nước ngoài, theo hướng ưu tiên thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, chuyển từ số lượng sang chất lượng, lấy hiệu quả và công nghệ làm thước đo chủ yếu đi cùng với bảo vệ môi trường, phát triển bền vững…, chủ trương của Chính phủ Việt Nam là sắp tới sẽ áp dụng các hình thức đầu tư mới, đầu tư xuyên biên giới không góp vốn (NEM), mở rộng phương thức mua bán và sáp nhập (M&A)...
Nguồn PetroTimes: https://petrotimes.vn/quy-mo-nho-can-ngai-lon-544525.html