Rào cản thể chế phải được tháo gỡ bằng tư duy đột phá
Hôm qua, Quốc hội dành trọn 1 ngày thảo luận 3 dự án Luật và 1 dự thảo Nghị quyết về lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Qua thảo luận, đại biểu Quốc hội nhấn mạnh, giáo dục và khoa học, công nghệ chỉ trở thành động lực then chốt phát triển đất nước khi rào cản thể chế được tháo gỡ bằng tư duy đột phá. Khi luật phản ánh đầy đủ Nghị quyết, chúng ta mới đưa được định hướng thành hành động hiệu quả, đưa đất nước tiến nhanh, tiến vững chắc trên con đường chuyển đổi số.
ĐBQH Trần Văn Khải (Ninh Bình): Thể chế hóa triệt để chủ trương đột phá của các Nghị quyết

Đảng luôn khẳng định giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu và là động lực then chốt cho phát triển của đất nước. Việc ban hành Nghị quyết 57 năm 2024 cùng với Nghị quyết 71 đã thể hiện quyết tâm xây dựng Việt Nam hùng cường trong kỷ nguyên số. Hai nghị quyết này đã đề ra những định hướng mới, đặc biệt nhấn mạnh phải chuyển đổi số toàn diện, phổ cập và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, khi đối chiếu với dự thảo Luật đã trình Quốc hội cho thấy dự thảo đâu đó vẫn chưa thể chế hóa được các nghị quyết này.
Đối với Luật Giáo dục (sửa đổi), vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi số toàn diện và phổ cập Nghị quyết 71 đã đề ra. Luật chưa quy định phổ cập kỹ năng số cho học sinh, chưa ràng buộc Nhà nước phải bảo đảm hạ tầng công nghệ thông tin cho mọi cơ sở giáo dục, nhất là vùng sâu, vùng xa, chưa đề cập đến việc xây dựng học liệu mở quốc gia và chưa nói đến việc bồi dưỡng năng lực số cho giáo viên. Vì vậy, cần phải bổ sung ở Điều 19 quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin cho giáo dục, đồng thời sửa Điều 29 yêu cầu tích hợp kỹ năng số vào trong chương trình giáo dục phổ thông.
Đối với dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), chưa thể chế hóa đầy đủ yêu cầu gắn kết trường đại học với doanh nghiệp mà Nghị quyết 71 đã đề ra. Tôi đề nghị bổ sung quy định hợp tác đại học doanh nghiệp, yêu cầu cơ sở giáo dục đại học phối hợp với doanh nghiệp thiết kế chương trình sát với nhu cầu của xã hội và bố trí sinh viên thực tập tại doanh nghiệp; đồng thời khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo và hỗ trợ trường đại học xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm khởi nghiệp. Những bổ sung này phù hợp với Nghị quyết 57 vốn coi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là đột phá quan trọng hàng đầu để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đối với dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi), nếu luật không bổ sung khung pháp lý về đánh giá, công nhận kỹ năng số sẽ khó thúc đẩy giáo dục, trang bị ngành giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trang bị kỹ năng số. Cần ban hành khung kỹ năng nghề nghiệp quốc gia, bao gồm kỹ năng số làm căn cứ đánh giá, công nhận trình độ người lao động, kể cả hệ thống chính quy và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia, kể cả kỹ năng số. Đồng thời, bổ sung cho phép doanh nghiệp, hiệp hội tham gia đánh giá kỹ năng nghề của người học, hiện thực hóa yêu cầu đánh giá bởi doanh nghiệp.
Các dự thảo Luật Giáo dục đã thể hiện tinh thần đổi mới nhưng để tạo đột phá, luật pháp phải thể chế hóa triệt để những chủ trương đột phá của Nghị quyết 57 và Nghị quyết 71.
Giáo dục và khoa học, công nghệ chỉ trở thành động lực then chốt và phát triển đất nước khi rào cản thể chế được tháo gỡ bằng tư duy đột phá và khi luật phản ánh đầy đủ Nghị quyết, chúng ta mới đưa được định hướng thành hành động hiệu quả, đưa đất nước tiến nhanh, tiến vững chắc trên con đường chuyển đổi số.
ĐBQH Lưu Bá Mạc (Lạng Sơn): Cần có cơ chế tài chính đặc thù chi cho hạ tầng số

Khoản 1 Điều 4 dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về những cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị quy định về chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Tôi đề nghị cân nhắc bổ sung thêm một số cơ chế như: cơ chế tài chính đặc thù về định mức chi cho hạ tầng số, cơ sở dữ liệu, học liệu số, cơ chế về việc thuê dịch vụ số, nền tảng số của doanh nghiệp trong nước thay vì chỉ đầu tư trang thiết bị. Cơ chế cho phép một số cơ sở giáo dục đại học lớn, đại học quốc gia được chọn làm hạt nhân để thí điểm giáo dục đại học số với mức tự chủ cao hơn về tài chính, tổ chức nhân sự gắn với trách nhiệm giải trình.
Cùng với đó, cân nhắc bổ sung thêm nội dung và làm rõ hơn cơ chế cho phép xây dựng, phát triển và hoàn thiện hạ tầng trí tuệ nhân tạo AI độc lập dùng riêng cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo chạy trên máy chủ trong nước và không phụ thuộc vào hạ tầng của nước ngoài. Hệ thống trí tuệ nhân tạo này phải được huấn luyện bằng dữ liệu tiếng Việt, tri thức của Việt Nam gắn với chương trình giáo dục và chuẩn đầu ra của Việt Nam.
Một trong những lý do đó là để ngành giáo dục và đào tạo có thể chủ động hơn trong việc ứng dụng những công cụ trí tuệ nhân tạo trong các hoạt động giáo dục. Đồng thời có thể bảo mật được dữ liệu nhạy cảm như hồ sơ học tập, năng lực cũng như hành vi học tập của các học sinh, sinh viên... và quan trọng không phụ thuộc vào chính sách của các tổ chức nước ngoài.
Đối với nội dung này có thể theo hướng kế thừa, tùy chỉnh các mô hình AI, mã nguồn mở mạnh hiện nay để phát triển trở thành một hệ thống AI phù hợp với tình hình thực tiễn hoạt động giáo dục và đào tạo của Việt Nam. Thực tế cho thấy rằng nhiều thầy giáo, cô giáo hiện nay cũng đang sử dụng những công cụ AI như ChatGPT, Gemini, Grok, Deep Seek... trong việc hỗ trợ giảng dạy, soạn bài, đánh giá năng lực cũng như quản lý hồ sơ học tập của học sinh, sinh viên. Việc này đã góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy rất lớn. Đồng thời, nội dung này rất mong muốn cơ quan soạn thảo thể hiện rõ hơn cả trong dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi).
ĐBQH Nguyễn Thị Lan (Hà Nội): Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp và các ngành thiết yếu

Dự thảo Nghị quyết rất công phu, thể hiện tư duy đột phá, tiếp cận hiện đại và đưa ra nhiều giải pháp khả thi, có thể tạo chuyển biến rõ rệt cho toàn ngành giáo dục đào tạo.
Tôi nhấn mạnh một vấn đề mang tính chiến lược và cấp thiết hiện nay, đó là phát triển nguồn nhân lực cho lĩnh vực nông nghiệp và các ngành thiết yếu đang gặp khó khăn trong việc thu hút người học. Dự thảo Nghị quyết đã thiết kế các cơ chế ưu tiên vượt trội cho văn hóa, nghệ thuật, thể thao và những lĩnh vực đặc thù khác tại khoản 4 Điều 4. Tuy vậy, tôi cho rằng, vẫn còn một khoảng trống chính sách rất quan trọng. Một số ngành trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp đang thiếu hụt nhân lực chất lượng cao nghiêm trọng và cần được đặt lên hàng ưu tiên chiến lược.
Thực tế nhiều năm qua cho thấy nhiều ngành xương sống của nông nghiệp như khoa học đất, khoa học cây trồng, chăn nuôi, bảo vệ thực vật, kinh doanh nông nghiệp, phát triển nông thôn, khuyến nông, phòng, chống thiên tai hay các ngành thủy sản và lâm nghiệp đều rất khó thu hút nguồn nhân lực trẻ dù nhu cầu của xã hội và doanh nghiệp là rất lớn. Các ngành quan trọng như công nghệ sau thu hoạch hay kỹ thuật tài nguyên nước cũng rơi vào tình trạng tương tự. Đây đều là những ngành có vai trò đặc biệt quan trọng đối với an ninh lương thực, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển nông nghiệp bền vững nhưng do đặc thù nghề nghiệp vất vả, thu nhập chưa hấp dẫn và thiếu chính sách đủ mạnh, các ngành này chưa tạo được sức hút đối với người học.
Khi có chính sách đủ mạnh và dài hạn, các ngành ít hấp dẫn vẫn có thể thu hút đông đảo người học và đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội. Tôi đề nghị bổ sung các cơ chế ưu tiên như: học bổng mục tiêu, tín dụng ưu đãi theo ngành, đặt hàng đào tạo và đầu tư mạnh cho phòng thí nghiệm, mô hình thực hành, đồng thời tăng cường hợp tác giữa nhà trường với các doanh nghiệp để nâng cao sức hấp dẫn và bảo đảm đầu ra cho người học.
Bên cạnh đó, tôi đề nghị bổ sung cơ chế dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia theo ngành; giao Chính phủ xây dựng và công bố định kỳ dự báo nhân lực quốc gia để định hướng đào tạo và phân bổ nguồn lực hợp lý.
ĐBQH Bế Trung Anh (Vĩnh Long): Chúng ta đang xây kiến trúc hệ sinh thái pháp luật giáo dục theo mô hình nào?

Khi chúng ta đồng loạt sửa Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp và Luật Giáo dục đại học và trước đó đã thông qua Luật Nhà giáo thì câu hỏi ở đây không phải là sửa gì mà là chúng ta đang xây dựng kiến trúc hệ sinh thái pháp luật giáo dục theo mô hình nào? Có hay không một luật làm trục, làm cột sống pháp lý để mọi đạo luật khác phải bám vào, tuân theo?
Các nước trên thế giới có nền giáo dục tiên tiến đều lấy chuẩn giáo dục làm luật trục, luật thống nhất làm nền tảng để những luật giáo dục khác nằm trong hệ sinh thái cũng tuân theo. Cho nên, về mặt lý thuyết thì dự thảo Luật Giáo dục cùng với Nghị quyết 71 đáng lẽ phải là luật trục đó để xác định mục tiêu, nguyên lý, cấu trúc, hệ thống, khái niệm và chuẩn chung của nhà giáo; các luật về giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, nhà giáo chỉ nên là những "vành đai" đặc thù xoay xung quanh trục.
Tôi đề nghị Quốc hội cần rõ thêm 3 điểm như sau:
Một là, khẳng định Luật Giáo dục là luật trục của lĩnh vực giáo dục, các luật ngành chỉ được phép cụ thể hóa trong khuôn khổ trục đó.
Hai là, rà soát, lược bỏ mọi quy định trùng lặp, định nghĩa tự mở mà chuẩn nhà giáo và các luật ban hành, buộc chúng quay về viện dẫn thống nhất trong Điều 66, Điều 67, Điều 69, Điều 72 của Luật Giáo dục và điều tương ứng của Luật Nhà giáo.
Ba là, giao Chính phủ và các Bộ chỉ xây dựng luật đặc thù, cơ chế đặc thù trên nền chuẩn thống nhất và không nên có những bộ luật con thứ cấp. Nếu không sửa từ kiến trúc thì sẽ tiếp tục sửa luật, sửa nghị định, sửa thông tư mà hệ quả là hệ thống vẫn nghiêng và người gánh chịu đầu tiên chính là những người chúng ta đang định tôn vinh đội ngũ nhà giáo Việt Nam và tiếp theo là các thế hệ con em của chúng ta.












