RCEP: Thị trường quy mô 2,2 tỉ và hướng đi cho doanh nghiệp Việt
Hiệp định RCEP khi được 15 thành viên thực thi sẽ tạo nên một thị trường lớn với quy mô 2,2 tỉ người tiêu dùng. Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp Việt cần lấy sức ép cạnh tranh làm động lực.
Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) được ký kết giữa 15 nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương vào ngày 15/11 vừa qua trở thành hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới, bao trùm gần một phần ba dân số và khoảng 30% tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu. Doanh nghiệp Việt Nam đang sẵn sàng để đón nhận những lợi ích từ Hiệp định này.
Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh, đã có rất nhiều khó khăn khi đàm phán RCEP, nhưng Việt Nam đã làm được. Việt Nam đã ký hiệp định RCEP, chính thức kết thúc quá trình đàm phán 8 năm. Hiệp định có sự tham gia của 15 quốc gia (10 nước ASEAN và 5 nước: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Úc, Niu-di-lân). Việc ký kết RCEP đánh dấu mốc quan trong trong tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam và tất cả các nước tham gia đàm phán Hiệp định.
Thứ nhất, Hiệp định RCEP, khi được 15 thành viên thực thi, sẽ tạo nên một thị trường lớn với quy mô 2,2 tỉ người tiêu dùng, chiếm khoảng 30% dân số thế giới, với GDP khoảng 27 nghìn tỉ USD, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu và sẽ trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới. Với các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ và đầu tư và hài hòa hóa quy tắc xuất xứ giữa tất cả các bên tham gia cũng như tăng cường các biện pháp tạo thuận lợi thương mại, việc thiết lập Hiệp định này sẽ tạo cơ hội để phát triển các chuỗi cung ứng mới trong khu vực.
Thứ hai, Hiệp định RCEP sẽ giúp thiết lập thị trường xuất khẩu ổn định lâu dài cho Việt Nam và các nước ASEAN. Trước tình hình thế giới đầy biến động gây ra những xáo trộn về chuỗi cung ứng trong những năm gần đây, việc hình thành một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới theo Hiệp định RCEP sẽ tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho Việt Nam, qua đó góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu của ta.
Thứ ba, việc thực hiện Hiệp định RCEP sẽ tạo nên một khuôn khổ ràng buộc pháp lý trong khu vực về chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp... góp phần tạo nên môi trường thương mại công bằng trong khu vực.
Theo một số nghiên cứu độc lập, ví dụ như nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, thì việc VIệt Nam chủ động cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng sẽ đem lại giá trị cho nền kinh tế Việt Nam còn cao hơn so với các lợi ích mở cửa thị trường trực tiếp của các nước. Đặc biệt, với các khung khổ hợp tác mới được đưa ra trong Hiệp định RCEP cùng với các FTA trước đây, chúng ta cùng một số nước ASEAN đang trở thành một điểm đến đáng tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế. Các lợi ích này thường mang ý nghĩa lâu dài cho nền kinh tế.
Thời báo Tài chính nhận định: Các khó khăn của Việt Nam trong việc đáp ứng được quy tắc xuất xứ của các đối tác có quy định nhập khẩu khắt khe như Nhật Bản, Úc, Niu-di-lân,… sẽ được tháo gỡ khi RCEP có hiệu lực thực thi. Đây là cú huých lớn cho xuất khẩu hàng hóa bởi nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất được Việt Nam nhập khẩu từ các nước RCEP cũng sẽ được xem như là nguồn nguyên liệu được sản xuất trong nước khi xuất sang các nước có ký kết hiệp định song phương, đa phương với Việt Nam.
RCEP góp phần định hình thị trường xuất khẩu ổn định, bền vững cho Việt Nam và các thành viên trong khu vực ASEAN.
Theo bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI), nhờ vào việc hài hòa quy tắc xuất xứ nội khối RCEP, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng khả năng đáp ứng điều kiện để hưởng ưu đãi thuế quan, từ đó gia tăng xuất khẩu trong khu vực này, đặc biệt là ở các thị trường lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Niu-di-lân...
Theo nghiên cứu của Dự án Hỗ trợ Chính sách Thương mại và Đầu tư của EU cho Việt Nam (MUTRAP), một số mặt hàng Việt Nam có sức cạnh tranh cao đã thống trị thị trường khu vực và toàn cầu (gạo, cà phê, hạt tiêu và hạt điều…), bên cạnh đó là các sản phẩm nông lâm thủy sản vẫn sẽ đóng một vai trò quan trọng trong mô hình xuất khẩu của đất nước. RCEP có thể cải thiện khả năng tiếp cận thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp, nhờ sự đa dạng các hương vị và thái độ nói chung của người tiêu dùng đối với các sản phẩm này.
Bên cạnh những lợi ích từ thương mại hàng hóa, RCEP dự kiến góp phần gia tăng nguồn vốn FDI vào Việt Nam. FDI từ các nền kinh tế phát triển sẽ có tác động tích cực tới nền kinh tế, trong đó có chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý cho Việt Nam.
Đăng tải ý kiến của doanh nghiệp về cơ hội từ RCEP, Báo Nhân dân điện tử dẫn lời của ông Cao Minh Sang, Giám đốc Công ty Thực phẩm Santa. Công ty này đang kỳ vọng có thể tăng 20% kim ngạch xuất khẩu khi RCEP có hiệu lực. RCEP là cơ hội để doanh nghiệp tận dụng hiệp định là có vì công ty đã có thời gian dài nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đến nay, sản phẩm của công ty đều đạt các chứng nhận như ISO, HACCP, USDA… đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp đã xây dựng vùng sản xuất nguyên liệu theo tiêu chuẩn hữu cơ tại khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long. Cùng với đó là dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại như dây chuyền chần trụng nguyên liệu ngay lập tức mà không cần qua chế biến của Mỹ, Nhật Bản giúp giữ được hương vị, màu sắc và độ tươi của sản phẩm. Hay công nghệ cấp đông IQF của Mỹ, công nghệ đóng chai HPP, tất cả đều đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA).
Nhiều doanh nghiệp, ngành hàng xuất khẩu khác đang kỳ vọng vào những lợi ích lớn khi RCEP được đưa vào thực thi. Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho biết, khi có hiệu lực, doanh nghiệp xuất khẩu có thể dùng chung một mẫu giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) thay vì từng mẫu C/O cho từng thị trường như hiện nay, giúp đơn giản thủ tục hơn cho doanh nghiệp. Những cam kết xuất xứ nội khối cho phép nguồn nguyên liệu được mở rộng hơn thay vì các cam kết khá chặt chẽ từ các Hiệp định như CPTPP hay EVFTA.
Tuy nhiên, thách thức cũng đang chờ doanh nghiệp Việt phía trước khi thực thi RCEP. Do cơ cấu thị trường tương tự Việt Nam nên khi RCEP được triển khai, các doanh nghiệp trong nước sẽ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp đến từ 14 thành viên còn lại không chỉ trong xuất khẩu mà ngay tại thị trường nội địa. Trong khi hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng của các sản phẩm có xuất xứ từ Việt Nam còn khiêm tốn so với các sản phẩm của các nước, đặc biệt là Trung Quốc – quốc gia mà Việt Nam hàng năm vẫn phải nhập siêu rất lớn.
Triển khai RCEP có thể làm tăng độ mở của nền kinh tế Việt Nam, gia tăng sự phụ thuộc của thương mại vào một số đối tác kinh tế lớn cũng như phụ thuộc nhiều hơn vào việc xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực. Trong bối cảnh biến động của kinh tế, chính trị thế giới được dự báo sẽ diễn biến khó lường, thì việc phụ thuộc ngày càng lớn vào các yếu tố bên ngoài sẽ mang đến nhiều rủi ro cho kinh tế - xã hội Việt Nam.
Nghiên cứu của MUTRAP cho thấy, Việt Nam sẽ phải đối diện với các thách thức lớn hơn, bao gồm giải quyết các vấn đề về chất lượng sản phẩm, nguồn lực để tận dụng lợi thế của các thỏa thuận thương mại, các hàng rào phi thuế quan, trong khi tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang một số nước và vùng lãnh thổ truyền thống đã bị thu hẹp, trong khi sang những nước khác cần có thời gian để tìm hiểu, thích nghi…
Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Doanh nhân Việt Nam, ông Phạm Văn Việt, Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Việt Thắng Jean, Ủy viên BCH Trung ương Hội Doanh nhân Tư nhân Việt Nam nhấn mạnh: Không thể phủ nhận rằng bất kỳ một hiệp định nào cũng đều mang lại những thuận lợi và cơ hội mới cho DN nên việc có thêm một FTA mới là điều hết sức cần thiết cho DN, nhất là DN dệt may trong bối cảnh khó khăn như hiện nay.
“Tuy nhiên với Hiệp định RCEP vốn có thêm Trung Quốc là nước có FTA mới với Việt Nam. Do đó, dù có ưu đãi về thuế quan khiến nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc về sẽ giảm nhưng việc xuất khẩu dệt may sang Trung Quốc có thể sẽ khó hơn. Bởi Trung Quốc là quốc gia xuất khẩu hàng dệt may tốp đầu thế giới, sức cạnh tranh rất mạnh. Khi được giảm thuế sẽ giúp nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng này so với hàng hóa Việt Nam”, ông Việt nói.
Để kịp thời hỗ trợ cho doanh nghiệp, Hiệp hội Dệt may Việt Nam đã kiến nghị với Chính phủ sớm xây dựng các giải pháp phát triển ngành dệt may đến năm 2030, định hướng đến năm 2040. Theo đó quy hoạch được các khu vực, địa phương chiến lược của ngành; đầu tư vào các khu công nghiệp có các nhà máy dệt nhuộm, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn về môi trường, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia sâu vào các chuỗi cung ứng dệt may, nâng cao sức cạnh tranh.
Ngoài ra, giống như rất nhiều các khung khổ hội nhập khác, các doanh nghiệp muốn tận dụng tốt cơ hội từ RCEP thì cần nghiên cứu kỹ hiệp định với lĩnh vực, ngành nghề mình đang sản xuất kinh doanh để từ đó có kế hoạch chuẩn bị trước. Bên cạnh đó, cần luôn đặt mình vào thế chủ động, tích cực tiếp cận thông tin về hội nhập, cũng như chuẩn bị các yếu tố về nhân lực, công nghệ để có thể hợp tác, nâng cao tính cạnh tranh sản phẩm với các doanh nghiệp nước ngoài. Lợi ích lớn chỉ dành cho các doanh nghiệp chủ động và có sự chuẩn bị kỹ lưỡng nhằm đón đầu cơ hội.
Hơn lúc nào hết, để tận dụng cơ hội từ RCEP, doanh nghiệp Việt cần thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới, lấy sức ép về cạnh tranh là động lực để đổi mới và phát triển.
Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, để tận dụng tối đa cơ hội từ các Hiệp định FTA, ngoài điều kiện cần là các giải pháp đồng bộ từ Chính phủ, Bộ, ngành và các địa phương, sự chủ động và tích cực của doanh nghiệp mới là điều kiện đủ để hiện thực hóa các lợi ích và cơ hội mà các Hiệp định FTA mang lại.
Các doanh nghiệp, hiệp hội cần chủ động tìm hiểu thông tin về các Hiệp định FTA để nắm vững cam kết của Việt Nam và các thị trường đối tác quan tâm.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới, lấy sức ép về cạnh tranh là động lực để đổi mới và phát triển. Hiệp định RCEP và các Hiệp định FTA sẽ mang lại cơ hội cho doanh nghiệp nào chủ động đáp ứng với những thay đổi về môi trường kinh doanh do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại thông qua việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho giai đoạn trung và dài hạn nhằm thúc đẩy dòng chảy của hàng hóa vào các thị trường đối tác tiềm năng nêu trên.
Cùng với sự hỗ trợ của Bộ Công Thương, doanh nghiệp cũng cần chủ động tìm hướng hợp tác với các thị trường đối tác của Hiệp định để thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam nhằm tận dụng hiệu quả nguồn vốn và việc chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn. Đây cũng chính là cơ hội tốt để các doanh nghiệp của ta tham gia sâu hơn nữa vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.