Rối loạn ám ảnh cưỡng bức và hệ lụy
Rối loạn ám ảnh cưỡng bức (OCD) là một nhóm bệnh bao gồm ý nghĩ ám ảnh và hành vi cưỡng bức.
Những ý nghĩ ám ảnh hay hành vi cưỡng bức là bền vững theo thời gian và ảnh hưởng rõ ràng tới thói quen, chức năng xã hội nghề nghiệp của bệnh nhân.
Bệnh sinh
Hệ thống Serotonin
Các thuốc chống trầm cảm ức chế tái hấp thu serotonin càng mạnh thì có hiệu quả điều trị OCD càng cao. Clomipramin và SSRI có hiệu quả trong điều trị OCD do tác động trên hệ thống serotoninergic.
Trong bệnh OCD có sự rối loạn điều hòa serotonin ở các synap tại một số vùng não khác nhau. Ngoài ra còn có sự tăng nhạy cảm đối với serotonin tại các thụ cảm thể của bệnh nhân OCD.
Các chất dẫn truyền thần kinh khác
Rối loạn điều hòa serotonin đơn thuần không giải thích được đầy đủ cơ chế của bệnh OCD. Người ta nhận thấy OCD có sự bất thường vasopressin và oxytocin (giảm nồng độ). Khi điều trị bằng clomipramin thì nồng độ các chất này tăng lên.
Rối loạn điều hòa dopamin cũng được nhận thấy trong bệnh OCD, nhưng vai trò của dopamin chưa được rõ ràng.
Gen di truyền
Người ta nhận thấy trong bệnh OCD yếu tố di truyền đóng vai trò rất quan trọng. Những người họ hàng mức độ 1 của bệnh nhân OCD (bố mẹ, anh, chị, em, con) cũng có nguy cơ bị bệnh rất cao so với những người bình thường (cao hơn khoảng 4 lần).
Triệu chứng rối loạn ám ảnh cưỡng bức
Hơn 90% số bệnh nhân có cả ám ảnh và hành vi cưỡng bức. Khoảng 30% ám ảnh chiếm ưu thế, 20% bệnh nhân có cưỡng bức chiếm ưu thế, còn 50% cả ám ảnh và cưỡng bức đều chiếm ưu thế.
Ám ảnh là các ý nghĩ không mong muốn, quá mức, thường gây lo âu và khó chịu.
Ám ảnh có thể là suy nghĩ thôi thúc, sợ hãi liên quan đến bạo lực, tình dục, tôn giáo, sự chán ghét và không cảm xúc.
Ám ảnh là ý nghĩ lặp đi lặp lại làm đứt đoạn ý nghĩ bình thường. Nhiều ám ảnh bao gồm các ý nghĩ khủng khiếp, như là lăng mạ, cưỡng hiếp, giết người hoặc quấy nhiễu tình dục trẻ em.
Ám ảnh sợ hãi thường có nội dung là sợ bệnh và sợ bị lây bệnh. Chúng khác ám ảnh sợ ở chỗ không có các kích thích gây ám ảnh sợ. Các ám ảnh sợ hãi khác thường là sợ gây hại cho người khác như sợ vô ý làm cháy nhà, sợ đâm phải trẻ con khi lái xe. Có bệnh nhân cứ ám ảnh mãi với các suy nghĩ có tính chất cân nhắc như: tay ta đã sạch chưa? Đã khóa cửa chưa? Có chất độc trong nước uống không?
Cưỡng bức đáp ứng các ám ảnh này là rửa tay rất lâu và rất nhiều lần, kiểm tra lại khóa cửa, đổ bình nước uống đi… Cưỡng bức là hành vi nhằm làm giảm sự khó chịu, nhưng tạo ra áp lực phải thực hiện hành vi cưỡng bức cho bệnh nhân.
Kiểm tra là hành vi bệnh lí, người bệnh cứ kiểm tra đi kiểm tra lại một đối tượng. Ví dụ như xem có ai lấy xe của mình không, xem cửa đó khóa chưa, xem có nhốt ai trong phòng không…
Chậm chạp là triệu chứng ít gặp hơn rửa tay và kiểm tra. Bệnh nhân mất rất nhiều thời gian để mặc quần áo hoặc chuẩn bị đi ra khỏi nhà. Bệnh nhân có triệu chứng này có lo âu ít hơn so với các ám ảnh và cưỡng bức khác.
Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt theo DSM 5
Tiêu chuẩn chẩn đoán
- Có ám ảnh, cưỡng bức, hoặc cả hai: Ám ảnh được định nghĩa bởi:
Những ý nghĩ, sự thôi thúc, những hình ảnh đã trải nghiệm tái diễn, bền vững xuất hiện mang tính cưỡng bức ở cùng một thời điểm của rối loạn và là nguyên nhân gây ra sự lo âu hoặc đau khổ.
Bệnh nhân cố gắng bỏ qua hoặc ngăn chặn những suy nghĩ, sự thôi thúc, những hình ảnh, hoặc để trung hòa chúng bằng suy nghĩ hoặc hành động khác (ví dụ, bằng cách thực hiện một xung động).
- Hành vi cưỡng bức được xác định bởi (1) và (2):
1. Hành vi lặp đi lặp lại (như rửa tay, đặt hàng, kiểm tra), hoạt động tâm thần (ví dụ, cầu nguyện, đếm, lặp đi lặp lại những lời thì thầm) bệnh nhân cảm thấy bị thúc đẩy để hành động đáp lại ám ảnh hoặc theo một quy luật phải được thực hiện một cách cứng nhắc.
2. Các hành vi, hoạt động tâm thần nhằm mục đích ngăn ngừa hoặc làm giảm bớt lo âu hoặc đau khổ, hoặc ngăn ngừa một số sự kiện hoặc tình huống đáng sợ; Tuy nhiên, những hành vi, hoạt động tâm thần này không phù hợp với thực tế để trung hòa hoặc dự phòng sự quá mức một cách rõ ràng. Lưu ý: Trẻ nhỏ có thể không thể trình bày rõ mục đích của những hành vi và hoạt động tâm thần này.
Ám ảnh cưỡng bức gây tốn nhiều thời gian (ví dụ, phải mất hơn 1 giờ mỗi ngày), gây đau khổ hay biểu hiện đáng kể trên lâm sàng, gây suy giảm chức năng xã hội, nghề nghiệp, hoặc chức năng quan trọng khác.
- Các triệu chứng ám ảnh cưỡng bức là không phải do tác dụng sinh lý của một chất (ví dụ, nghiện ma túy) hoặc một bệnh khác.
- Rối loạn này không phải là các triệu chứng của rối loạn tâm thần khác (ví dụ, lo lắng quá mức, như trong rối loạn lo âu; mối bận tâm với hình thể, như trong cơ thể rối loạn sợ dị hình, hành vi ăn nghi thức, như trong các rối loạn ăn uống, cờ bạc, như trong các rối loạn liên quan đến chất gây nghiện hoặc của hành vi định hình, như trong rối loạn tự kỷ).
Chẩn đoán phân biệt
Rối loạn lo âu.
Các rối loạn có liên quan khác.
Trong rối loạn nhổ tóc (Trichotillomania), các hành vi cưỡng bức được giới hạn ở hành vi nhổ tóc mà không có ám ảnh.
Rối loạn ăn.
Tic (trong rối loạn tic) và vận động rập khuôn.
Tâm thần phân liệt.
Rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng bức.
Tiến triển và tiên lượng
Tiến triển tự nhiên của ám ảnh, cưỡng bức như sau:
- Khoảng 20 đến 30% bệnh nhân có cải thiện rõ ràng các triệu chứng.
- Khoảng 40 đến 50% bệnh nhân có cải thiện vừa phải.
- Còn lại 20 đến 40% không cải thiện hoặc các triệu chứng của họ xấu đi.
Khoảng một phần ba số bệnh nhân mắc chứng bệnh OCD có trầm cảm kết hợp và tất cả các bệnh nhân OCD đều có nguy cơ tự sát.
Mặc dù tiến triển tự nhiên của OCD là nghèo nàn nhưng việc điều trị bằng thuốc và liệu pháp hành vi làm tiến triển của bệnh tốt lên. Nếu được điều trị sớm có đến 83% số bệnh nhân tiến triển tốt, trong đó một nửa là hồi phục gần như hoàn toàn.
Điều trị
- Thuốc chống trầm cảm
- Liệu pháp tâm lý
-Liệu pháp hành vi
Liệu pháp hành vi trong điều trị bệnh OCD gồm 2 kỹ thuật:
1. Bộc lộ ám ảnh để làm giảm lo âu phối hợp với ám ảnh.
2. Kỹ thuật ngăn chặn nhằm giảm hành vi cưỡng bức và ý nghĩ ám ảnh.
-Liệu pháp hỗ trợ
Liệu pháp hỗ trợ cũng có hiệu quả đối với OCD, giúp cho bệnh nhân có thể làm việc và thực hiện điều chỉnh xã hội. Với sự tiếp xúc liên tục và thường xuyên, quan tâm, cảm thông và khuyến khích người bệnh, bệnh nhân có thể hoạt động xã hội nghề nghiệp nhờ sự giúp đỡ này.
Thỉnh thoảng, khi ý nghĩ ám ảnh và lo lắng có cường độ quá mạnh, bệnh nhân cần thiết phải nhập viện để loại bỏ căng thẳng từ môi trường bên ngoài làm giảm bớt các triệu chứng đến một mức độ chấp nhận được.
Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/roi-loan-am-anh-cuong-buc-va-he-luy-169221030192250867.htm