Sài Gòn hơn 100 năm trước qua cái nhìn của một chàng trai xứ Bắc
Chủ nhiệm tạp chí Nam Phong Phạm Quỳnh năm đó mới 26 tuổi, đã có những nhận xét tinh tế, sâu sắc về Sài Gòn, đô hội lớn ở phương Nam.

Họa đồ toàn cảnh Sài Gòn năm 1898 do Gaston Pusch vẽ.
Hơn 100 năm trước, chủ nhiệm tạp chí Nam Phong Phạm Quỳnh đã có chuyến du ký hơn một tháng ở Nam kỳ, kéo dài từ cuối tháng 8 đến cuối tháng 9/1918.
Sau khi về Bắc, ông cho đăng tập du ký Một tháng ở Nam kỳ trên Nam Phong tạp chí (ba kỳ không liên tục: kỳ I, số 17, tháng 11/1918; kỳ II, số 19, tháng 1/1919; kỳ III (kỳ cuối), số 20, tháng 2/1919) kể lại chuyến đi, “đem lời thành thực mà giãi bày bàn bạc cùng quốc dân”.
Một đô hội mới theo lối Tây
Theo nội dung của tập du ký, ngày 21/8/1918, Phạm Quỳnh đi xe lửa từ Hà Nội xuống Hải Phòng. Ngày 22/8/1918, ông rời Hải Phòng trên chiếc tàu thủy Porthos để du hành Nam kỳ, bốn ngày sau tàu cập cảng Sài Gòn.
Ông kể lại: “Tàu đi cả thảy hai ngày rưỡi ba đêm, đường đi tới hơn một nghìn rưởi km. Tang tảng sáng ngày thứ tư đã vào tới cửa Sài Gòn. Sài Gòn cách biển những 60 km nên từ cửa Cần Giờ vào, đi ngược con sông Sài Gòn, còn phải mất mấy giờ đồng hồ. 7h sáng thì tàu vừa ghé bến. Trông dưới bến đã thấy nhan nhản những người ra đón anh em bà con sắp ở tàu xuống”.
Chiếc xe kéo đưa Phạm Quỳnh qua cầu Khánh Hội, vị du khách của chúng ta bắt đầu tiếp xúc cái khí vị của Sài Gòn - thành phố Tây, một chốn đô hội lớn ở phương Nam: “Khi đã ngồi trên xe kéo, chạy qua cầu Khánh Hội, hô hấp cái không khí mát buổi sáng, mới bắt đầu tiếp xúc cái cảnh sắc, cái khí vị đất Sài Gòn từ đấy. Ngay lúc mới đầu ấy đã biết ngay cái cảnh sắc ấy là cảnh sắc một nơi thành phố Tây, cái khí vị ấy là khí vị một chốn đô hội lớn. Nhân thể đi dạo chơi trong mấy đường phố lớn. Đường có tiếng nhất ở Sài Gòn là đường Catinat (đường Đồng Khởi ngày nay)”.
Những con đường Catinat (nay là đường Đồng Khởi), Charner (nay là đường Nguyễn Huệ), Xã Tây (nay là Trụ sở UBND TP.HCM), Phủ Toàn quyền (nay là Hội trường Thống Nhất)... hiện ra rạng rỡ trước mắt chàng trai xứ Bắc.
Phạm Quỳnh mô tả về đường Caninat: “Kể to lớn thì đường Catinat chưa phải là to lớn nhất ở Sài Gòn. Nhưng cũng như đường Paul Bert ở Hà Nội (nay là phố Tràng Tiền) là nơi người Tây đến lập phố trước nhất, rồi sau mỗi ngày một bành trướng mãi ra, thành nơi trung tâm, đâu đâu cũng đổ xô về đấy, các đường mở sau đều tiếp phụ xung quanh. Đông đúc phồn thịnh đến nỗi đã phải mở một con đường chạy dọc theo, to lớn rộng rãi hơn nhiều, gọi là đường Charner (đường Nguyễn Huệ ngày nay)”.
Nói về các dinh thự và nhà công sở ở Sài Gòn lúc bấy giờ, Phạm Quỳnh nhận xét “Sài Gòn còn nhiều những dinh thự cùng các nhà công sở đẹp lắm, như nhà dây thép, tòa án, dinh quan Thống đốc Nam Kỳ (tức trong ấy gọi là dinh Phó soái), nhà hát Tây… Nhưng đẹp nhất là nhà Thị sảnh Sài Gòn (Hotel de ville, trong ấy gọi là nhà “xã tây” vì ông đốc lý thành phố tục kêu là ông xã tây)”.
Ông mô tả cho độc giả của mình về tòa thị sảnh Sài Gòn: “Kiểu đại khái cũng giống như các nhà thị sảnh bên Tây, trên có cái chòi vuông mấy từng cao chót vót. Mặt trước trông thẳng ra đường Charner (đường Nguyễn Huệ ngày nay) vừa dài vừa rộng, đi đằng xa lại, coi cũng có cái vẻ trang nghiêm, xứng đáng làm nơi công sở của một chốn đô hội lớn như Sài Gòn. Chẳng bì với nhà Đốc lý Hà Nội ta, thật so sánh mà thẹn thay. Mà Hà Nội lại là nơi thủ đô của Đông Dương”.
Ông cũng bày tỏ sự thán phục đặc biệt với kiến trúc Dinh Norodom, nơi làm việc của Thống đốc Nam kỳ “Đẹp nhất, coi trang nghiêm nhất là con đường đi thẳng vào phủ Toàn quyền (người Sài Gòn thường gọi là tòa Chánh soái). Hai bên có hai khu vườn trồng những cây lớn, tối trông như hai đám rừng nhỏ, ở giữa một con đường rộng chạy thẳng băng tự đầu tỉnh đằng kia cho tới ngang cửa phủ. Coi thật là có bề thế, có vẻ tôn nghiêm, xứng đáng với một nơi tướng phủ. Mà phủ Toàn quyền ở đây, quy mô cũng đẹp hơn ở Hà Nội”.

Sách Một tháng ở Nam kỳ. Ảnh: O.P.
Hạt báu của Á Đông
Nói về Sài Gòn - đô hội lớn ở phương Nam, Phạm Quỳnh, năm đó mới 26 tuổi, đã có những nhận xét tinh tế, sâu sắc: “Người ta thường gọi Sài Gòn là cái 'hạt báu của Á Đông' (la perle de l’Extrême-Orient). Tôi chưa từng được biết những nơi đô hội lớn ở Á Đông như Hương Cảng (Hong Kong), Thượng Hải, Tân Gia Ba (Singapore) nhưng chắc rằng những nơi ấy tuy có lớn, có đông, có sầm uất phồn thịnh hơn, mà về cách sửa sang sắp đặt, về cái quy mô các đường phố, các lâu đài, về cái vẻ chỉnh đốn sạch sẽ, mĩ miều khả ái, trơn chu mà sán lạn như hạt châu mới rửa thì còn kém Sài Gòn nhiều”.
Phạm Quỳnh quan sát tỉ mỉ và không quên so sánh Bắc kỳ với “vùng đất mới”, qua đó khắc họa được chân dung xã hội, bức tranh toàn cảnh về đất nước ở một thời đoạn lịch sử: “Cái hình thức của thành phố Sài Gòn sánh với thành phố Hà Nội còn hơn nhiều. Từ cách đặt đường phố cho đến cách dựng cửa nhà, từ cách thắp đèn điện cho đến cách đặt máy nước ở các nhà, cho đến cách tuần phòng vệ sinh trong phố xá, nhất nhất đều có tiến bộ hơn Hà thành ta cả.
Ở Sài Gòn thật là có cái cảm giác một nơi đô hội mới, nghĩa là một nơi đô hội theo lối Tây. Vào đến Chợ Lớn thì lại ra cái cảm giác một nơi đô hội theo lối Tàu. Còn các châu thành khác ở Lục tỉnh, thì những nơi quan sở là Tây mà chốn phố phường là Tàu, phần An Nam thật ít lắm. Xét về phương diện đó thì những đô hội Bắc kỳ tuy coi cũ kỹ mà còn có cái vẻ An Nam hơn”.
Phạm Quỳnh không chỉ quanh quẩn ở Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn. Trong chuyến đi hơn một tháng ở Nam, ông đã đi nhiều nơi, cho mở rộng kiến văn. Ngoài ra, ông còn có những buổi giao lưu, gặp gỡ với các bậc danh sĩ, trí thức, “đồng nghiệp” trong làng báo ở Nam kỳ...