'Săn lùng' 1.400 tỉ USD: Giấc mơ kinh tế vũ trụ Việt Nam
Thế giới đang hướng tới một nền kinh tế vũ trụ được dự báo đạt quy mô 1.400 tỉ USD vào năm 2030. Nếu không hành động nhanh chóng, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội lớn trong cuộc đua công nghệ toàn cầu.
Ngành công nghệ vũ trụ, vốn dĩ được xem là lĩnh vực hàn lâm và xa vời, nay đã hội tụ đầy đủ các điều kiện để chuyển mình thành một ngành kinh tế chiến lược đầy tiềm năng tại Việt Nam. Theo nhận định của các chuyên gia hàng đầu, đầu tư cho công nghệ vũ trụ không còn là câu chuyện xa xỉ mà là yêu cầu tất yếu, mở ra động lực phát triển mới cho quốc gia trong bối cảnh thế giới bước sâu vào kỷ nguyên đổi mới sáng tạo.
Công nghệ vũ trụ là hạ tầng chiến lược
Theo ông Lý Hoàng Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và Công nghệ (Bộ KH&CN), trong suốt nhiều năm qua, Việt Nam đã xây dựng được nền tảng vững chắc thông qua việc triển khai Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia về công nghệ vũ trụ qua bốn giai đoạn, khởi điểm từ năm 2008.

Hình ảnh mô phỏng vệ tinh LOTUSat-1
Sự khẳng định về vị thế chiến lược của lĩnh vực này được thể hiện rõ ràng qua hàng loạt văn bản quan trọng. Đặc biệt, Quyết định 1131/QĐ-TTg ngày 12.6.2025 của Thủ tướng Chính phủ đã đưa công nghệ hàng không - vũ trụ vào nhóm 11 công nghệ chiến lược được ưu tiên đầu tư, nhấn mạnh quyết tâm của Chính phủ trong việc biến công nghệ này thành động lực quốc gia.
Những dấu ấn ban đầu của Việt Nam trong việc chinh phục không gian là đáng ghi nhận, bao gồm việc phát triển và vận hành thành công các vệ tinh như VNREDSat-1, MicroDragon, NanoDragon hay LOTUSat-1. Bên cạnh đó, việc xây dựng Trung tâm Vũ trụ Việt Nam tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc đã tạo nên một trong những công trình hiện đại bậc nhất khu vực Đông Nam Á, góp phần quan trọng vào việc đào tạo nhân lực và từng bước làm chủ công nghệ vệ tinh.
Thách thức và lời kêu gọi bứt phá
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng thẳng thắn chỉ ra rằng, các thành tựu hiện tại vẫn còn rời rạc và thiếu sức bật nếu không có một chiến lược dài hạn và cơ chế đầu tư đồng bộ, mạnh mẽ hơn.
Ông Trần Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục Viễn thám quốc gia (Bộ Tài nguyên và Môi trường), nhấn mạnh rằng Việt Nam hiện đang đối mặt với những thách thức lớn về hạ tầng công nghệ chưa bài bản và sự thiếu phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành.
Cùng với đó, nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực viễn thám và công nghệ vũ trụ còn khan hiếm, trong khi nhu cầu ứng dụng dữ liệu vệ tinh trong viễn thông, quản lý tài nguyên, môi trường và thiên tai ngày càng cấp thiết.
Ông Ngọc đề xuất: "Để phát triển bền vững ngành công nghệ vũ trụ, chúng ta cần đầu tư hạ tầng đồng bộ, tổ chức đào tạo chuyên sâu và có chính sách thu hút nhân tài mang tính đột phá”.
Hướng đến nền kinh tế vũ trụ tỉ đô
Theo PGS.TS. Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, thế giới đang hướng tới một nền kinh tế vũ trụ được dự báo đạt quy mô 1.400 tỉ USD vào năm 2030. Nếu không hành động nhanh chóng, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội lớn trong cuộc đua công nghệ toàn cầu.
Ông Tuấn khẳng định đã đến lúc cần xác định vũ trụ không chỉ là công nghệ chiến lược mà còn là một ngành kinh tế tiềm năng, tạo ra cơ hội từ các ứng dụng vệ tinh, viễn thông, dữ liệu và các dịch vụ liên quan. Ông kiến nghị Việt Nam cần xem không gian vũ trụ là một trong năm không gian chiến lược quốc gia, bên cạnh đất liền, biển, bầu trời và không gian mạng. Để thực hiện điều này một cách thống nhất, việc thành lập một Cơ quan Hàng không Vũ trụ quốc gia trực thuộc Chính phủ là vô cùng cần thiết.
Mục tiêu cốt lõi là tự chủ chế tạo vệ tinh nhằm giảm chi phí, chủ động dữ liệu và bảo đảm an ninh quốc gia. Hiện tại, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đang trình Thủ tướng phê duyệt Đề án "Tăng cường năng lực quốc gia về quan sát Trái Đất dựa trên hệ thống vệ tinh nhỏ" giai đoạn 2025 - 2030, tầm nhìn đến 2040.
Đề án đầy tham vọng này đặt mục tiêu chế tạo và phóng một vệ tinh radar độ phân giải siêu cao cùng hai vệ tinh quang học độ phân giải cao, đồng thời xây dựng trung tâm tích hợp, thử nghiệm vệ tinh tại Hòa Lạc và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước.
Nếu được triển khai hiệu quả, đây sẽ là bước ngoặt quan trọng giúp Việt Nam làm chủ công nghệ vệ tinh nhỏ, hình thành hệ sinh thái công nghiệp vũ trụ, và tăng cường năng lực cạnh tranh trong các vấn đề an ninh, kinh tế, khoa học.
Công nghệ vũ trụ đã bước sang kỷ nguyên thương mại hóa và hội nhập sâu rộng. Đầu tư vào lĩnh vực này không chỉ là chiến lược mang tầm nhìn dài hạn mà còn là sự hòa quyện giữa khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và kinh tế. Khi những vệ tinh Việt Nam tiếp tục bay lên không gian, đó không chỉ là dấu mốc công nghệ, mà còn là biểu tượng rõ nét nhất của khát vọng làm chủ bầu trời và khẳng định vị thế quốc gia trong kỷ nguyên vũ trụ mới.












