Sắp diễn ra hội thảo quốc tế về danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn

Hội thảo quốc tế về danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn diễn ra từ ngày 29/9 đến ngày 1/10 tại TP Thái Bình, theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến.

Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch (VHTT&DL) Hoàng Đạo Cương vừa ký quyết định số 1974/QĐ-BVHTTDL cho phép Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam phối hợp với Sở VHTT&DL tỉnh Thái Bình tổ chức hội thảo quốc tế “Lê Quý Đôn, cuộc đời và sự nghiệp”.

Thời gian tổ chức hội thảo từ ngày 29/9 đến ngày 1/10 tại thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến.

Lê Quý Đôn (1726 - 1784) tên lúc nhỏ là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường. Ông được mệnh danh là nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến.

 Khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn ở xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ảnh: sovhttdl.thaibinh.gov.vn

Khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn ở xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ảnh: sovhttdl.thaibinh.gov.vn

Lê Quý Đôn sinh ra trong một gia đình nông dân tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam, nay là thôn Đồng Phú thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, chăm học. Năm 14 tuổi, Lê Quý Đôn theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long. Lúc ấy cậu bé 14 tuổi đã học xong toàn bộ sách kinh, sử của Nho gia. 18 tuổi, Lê Quý Đôn thi Hương đỗ Giải nguyên. 27 tuổi đỗ Hội nguyên, rồi đỗ Đình nguyên Bảng nhãn.

Sau khi đã đỗ đạt, Lê Quý Đôn được bổ nhiệm làm quan và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều Lê - Trịnh, như: Hàn lâm thừa chỉ sung Toản tu quốc sử quán (năm 1754), Hàn lâm viện thị giảng (năm 1757), Đốc đồng xứ Kinh Bắc (năm 1764), Thị thư kiêm Tư nghiệp Quốc tử Giám (năm 1767), Tán lý quân vụ, Thị phó đô ngự sử (năm 1768), Công bộ hữu thị lang (năm 1769), Bồi tụng (năm 1773), Lại bộ tả thị lang kiêm Tổng tài quốc sử quán (năm 1775), Công bộ thượng thư (năm 1784)...

Trong cuộc đời làm quan của Lê Quý Đôn, có những sự kiện ảnh hưởng lớn đối với sự nghiệp văn chương của ông.

Đó là chuyện đi sứ Trung Quốc năm 1760 - 1762. Tại Yên Kinh (Bắc Kinh), Lê Quý Đôn gặp gỡ các sứ thần Triều Tiên, tiếp xúc với nhiều trí thức nổi tiếng của nhà Thanh, bàn luận với họ những vấn đề sử học, triết học... Học vấn sâu rộng của ông được các học giả Trung Quốc, Triều Tiên rất khâm phục.

Lê Quý Đôn có dịp đọc nhiều sách mới lạ, kể cả sách của người phương Tây nói về địa lý thế giới, về ngôn ngữ học, thủy văn học... Những năm 1772, 1774, Lê Quý Đôn đi công cán ở các vùng Sơn Nam, Tuyên Quang, Lạng Sơn, ông đã tận thấy nỗi khổ của nhân dân cùng tệ tham nhũng, ăn hối lộ của quan lại; khám đạc ruộng đất các vùng ven biển bị địa chủ, cường hào địa phương man khai, trốn thuế...

Chính nhờ quá trình đi nhiều, nghe nhiều, biết nhiều việc đời như vậy mà kiến thức của Lê Quý Đôn rất phong phú. Ông viết trong lời tựa sách “Kiến văn tiểu lục”: "Tôi vốn là người nông cạn, lúc còn bé thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm quan, xem lại sách đã chứa trong tủ, vâng theo lời dạy của cha, lại được giao du nhiều với các bậc hiền sĩ đại phu. Thêm vào đấy phụng mệnh làm việc công, bốn phương rong ruổi: mặt bắc sang sứ Trung Quốc, mặt tây bình định Trấn Ninh, mặt nam trấn thủ Thuận Quảng. Đi tới đâu cũng để ý tìm tòi, làm việc gì mắt thấy tai nghe đều dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận sơ qua, giao cho tiểu đồng đựng vào túi sách".

Tác phẩm của Lê Quý Đôn có tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số bị thất lạc. Những tác phẩm tiêu biểu của Lê Quý Đôn còn giữ được có thể kể đến như: “Quần thư khảo biện”, tác phẩm chứa đựng nhiều quan điểm triết học, lịch sử, chính trị được viết trước năm ông 30 tuổi.

Sách “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn làm xong lúc ông 30 tuổi. Đây được coi như bách khoa thư, trong đó tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học... sắp xếp theo thứ tự: Vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội...

“Vân đài loại ngữ” là bộ sách đạt tới trình độ phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa khá cao, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc đối với nền khoa học Việt Nam thời phong kiến.

“Đại Việt thông sử” là bộ sử được viết theo thể ký truyện, chép sự việc theo từng loại, từng điều một cách hệ thống, bắt đầu từ Lê Thái Tổ đến Cung Hoàng, bao quát một thời gian hơn 100 năm của triều Lê, trong đó chứa đựng nhiều tài liệu mới mà các bộ sử khác không có, đặc biệt là về cuộc kháng chiến chống quân Minh.

“Kiến văn tiểu lục” - tập bút ký nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời Trần đến đời Lê. Ông còn đề cập tới nhiều lĩnh vực thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành quách núi sông, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác cho tới các lĩnh vực thơ văn, sách vở...

“Phủ biên tạp lục”, tác phẩm được viết trong thời gian Lê Quý Đôn làm Hiệp trấn Thuận Hóa. Nội dung ghi chép về tình hình xã hội Đàng Trong từ thế kỷ XVIII trở về trước.

Công trình biên soạn lớn nhất của Lê Quý Đôn là bộ “Toàn Việt thi lục” gồm 6 quyển, tuyển chọn 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lý đến đời Lê Tương Dực (1509 - 1516). Lê Quý Đôn hoàn thành Toàn Việt thi lục năm 1768, dâng lên vua, được thưởng 20 lạng bạc.

Về sáng tác văn xuôi, theo Phan Huy Chú, Lê Quý Đôn có “Quế Đường văn tập” 4 quyển, nhưng sách này đã mất. Về sáng tác thơ, Lê Quý Đôn cũng có “Quế Đường thi tập” khoảng vài trăm bài làm ở trong nước và trong thời gian đi sứ Trung Quốc...

Thế Vũ

Nguồn Công Luận: https://congluan.vn/sap-dien-ra-hoi-thao-quoc-te-ve-danh-nhan-van-hoa-le-quy-don-post304337.html