Sau Delta, biến thể tiếp theo của virus SARS-CoV-2 sẽ như thế nào?
Giữa bối cảnh biến thể Delta dễ lây nhiễm thách thức những nỗ lực kiểm soát dịch bệnh trên thế giới, một câu hỏi lớn được đặt ra là liệu virus SARS-CoV-2 sẽ gây nên điều gì tiếp theo?
Sau Delta, biến thể nào sẽ xuất hiện?
Các nhà khoa học đều nhất trí rằng, những đột biến mới của virus SARS-CoV-2 sẽ xuất hiện theo thời gian, và có sẽ một biến thể mới sau hàng loạt cái tên như Alpha, Beta, Gamma hay Lambda.
Câu hỏi là liệu virus gây nên đại dịch tồi tệ sẽ tiến hóa để đe dọa nhiều hơn hay ít hơn về mức độ gây hại với sức khỏe con người, độ lây nhiễm và khả năng kháng vaccine.
Mặc dù lịch sử về các loại virus trước đó giúp chúng ta mường tượng phần nào về những viễn cảnh phía trước đối với xu hướng hiện tại của đại dịch nhưng không không ai biết rõ về mối đe dọa mà các biến thể mới có thể gây ra. Các nhà khoa học phần lớn đều cho rằng, virus SARS-CoV-2 sẽ tiếp tục lây lan trong một hoặc một vài năm nữa nhưng không có cách nào để biết chính xác nó sẽ tiến hóa như thế nào và không phải tất cả các đột biến đều trở nên đáng lo ngại hay nguy hiểm hơn.
"Các biến thể của virus SARS-CoV-2 sẽ xuất hiện nhưng không phải tất cả các đột biến đều có tác động tiêu cực với y tế công cộng", Yvonne Su, giáo sư tại Chương trình nghiên cứu các bệnh truyền nhiễm thuộc Trường Y Đại học Quốc gia Singapore cho hay, song cũng nhận định: "Việc theo dõi và đánh giá các biến thể mới có vai trò quan trọng bởi một số biến thể trong số đó có thể làm tăng nguy cơ".
Cho tới nay, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã xác định 4 "biến thể đáng lo ngại", trong đó có Delta, với khả năng lây nhiễm gấp đôi chủng virus ban đầu ở Vũ Hán, Trung Quốc.
Delta hiện là biến thể áp đảo trên thế giới khi đã lây lan ra ít nhất 135 quốc gia kể từ khi được phát hiện lần đầu tiên ở Ấn Độ vào tháng 10/2020. Khả năng lây lan nhanh chóng của nó đã làm dấy lên sự thận trọng trong việc dỡ bỏ các biện pháp hạn chế, đặc biệt tại những quốc gia ở châu Á - Thái Bình Dương như Trung Quốc, Australia và New Zealand, vốn dựa vào nỗ lực xóa sổ dịch bệnh và các biện pháp kiểm soát biên giới nghiêm ngặt để giữ cho số ca mắc và số ca tử vong ở mức thấp.
WHO cũng nêu ra 4 biến thể cần quan tâm, dựa trên "những thay đổi về gen được dự đoán có thể ảnh hưởng tới những đặc tính của virus” như sự lây nhiễm, mức độ gây bệnh và khả năng kháng vaccine.
Hiệu quả của vaccine
Trong khi có những bằng chứng cho thấy biến thể Delta dễ lây nhiễm hơn ở những người đã tiêm vaccine so với chủng virus ban đầu, không có biến thể nào hiện nay có thể khiến cho vacicne không còn hiệu quả trong việc ngăn ngừa các ca bệnh nặng và ca tử vong.
Tại Anh, nơi có khoảng 75% những người trên 18 tuổi đã được tiêm vaccine đầy đủ, các trường hợp nhập viện và tử vong đều giảm, bất chấp mỗi ngày có hàng chục nghìn ca mắc mới trong những tuần gần đây. Theo dữ liệu của Cơ quan Y tế Công cộng Anh, chỉ 512 người đã được tiêm 2 liều vaccine phải nhập viện từ 19/7 - 2/8, so với tỷ lệ nhập viện trung bình là gần 39.000 người vào thời kỳ đỉnh dịch hồi tháng 1.
Một số chuyên gia dự báo, virus SARS-CoV-2 sẽ trở nên ít lây nhiễm hơn hoặc giảm mức độ nguy hiểm qua thời gian, dựa trên giả thuyết về sự đánh đổi giữa lây nhiễm và độc lực. Theo giả thuyết gây tranh cãi trong cộng đồng khoa học này, việc tăng độc lực sẽ đi cùng với việc giảm khả năng lây nhiễm bởi nếu vật chủ tử vong thì dịch bệnh không thể lan rộng.
Polly Roy, giáo sư về virus học tại Trường Y học Nhiệt đới và Vệ sinh Dịch tễ London, cho rằng hầu hết virus đều tiến hóa "dần dần qua thời gian để có lợi cho chúng hơn", điều đó tức là chúng không thể mất đi vật chủ.
"Hầu hết biến thể sẽ không tác động quá nhiều đến các loại vaccine hiện nay và vẫn bị kiểm soát bởi việc tiêm vaccine. Vì thế, chúng ta không cần phải hoảng sợ. Cho tới nay, những thay đổi không diễn ra quá mạnh mẽ và những yếu tố căn bản của virus vẫn giữ nguyên, chúng vẫn lây nhiễm sang cùng loại tế bào và gây ra một dịch bệnh", chuyên gia này nhận định.
Đối chiếu với lịch sử
Một số nhà khoa học đã xem xét một số bằng chứng về xu hướng của virus SARS-CoV-2 khi so sánh với sự tiến hóa của một trong những loại virus corona gây nên bệnh cảm lạnh thông thường.
Năm ngoái, các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Leuven của Bỉ đã theo dõi thời điểm virus corona OC43 lây từ gia súc sang con người trong giai đoạn của đại dịch năm 1889 – 1890, từng khiến 1 triệu người thiệt mạng.
"Có khả năng virus trở nên dễ lây nhiễm hơn nhưng cũng ít gây bệnh hơn. Chẳng hạn, với virus cúm và virus corona gây bệnh cảm lạnh thông thường, khi virus lây từ động vật sang con người, những ca mắc ban đầu thường có triệu chứng nghiêm trọng và tử vong nhưng khi virus lan rộng và đột biến qua thời gian, nó trở nên giảm khả năng gây bệnh nặng. Điều này có lẽ cũng giống với trường hợp của virus corona gây bệnh cảm lạnh OC43", Lawrence Young, một nhà virus học tại Trường Y Warwick đánh giá.
Ông Young cho biết, trong khi thế giới đối mặt với một thời khắc "mong manh", việc hoảng sợ về những đột biến không giúp ích gì và mọi người cuối cùng sẽ phải học cách sống chung với nó.
Các chuyên gia khác đã dấy lên nhiều cảnh báo về mối đe dọa của các đột biến, đặc biệt nguy cơ về sự xuất hiện của một biến thể có thể kháng các loại vaccine hiện nay.
Trong cuộc khảo sát 77 nhà dịch tễ học được tiến hành hồi tháng 3, 2/3 những người được hỏi cho biết họ tin rằng virus sẽ đột biến ở mức độ vô hiệu hóa vaccine thế hệ thứ nhất trong 1 năm hoặc dưới 1 năm.
Nikolaus Osterrieder, chuyên gia tại trường Cao đẳng Thú Y và Khoa học Đời sống thuộc Đại học City University ở Hong Kong (Trung Quốc) nhận định, những kinh nghiệm trước đây cho thấy các biến thể mới sẽ tăng mức độ lây nhiễm và khả năng kháng vaccine.
"Nói một cách đơn giản, các loại virus không có lợi khi tăng độc lực, chúng chỉ "quan tâm" đến việc tồn tại và lây lan. Vì thế, virus không quan tâm đến việc trở nên nguy hiểm hay ít nguy hiểm hơn, miễn là nó có thể lây lan hiệu quả. Nhìn chung, có một sự đánh đổi giữa sự lây nhiễm và độc lực để đạt được sự cân bằng", chuyên gia Osterrieder bình luận.
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Osterrieder cho rằng, sự xuất hiện của các biến thể mới không thay đổi yêu cầu thế giới cần học cách sống chung với virus và các đột biến của nó.
"Chúng ta cần chuyển sự chú ý từ 'số ca mắc' sang 'giảm gánh nặng bệnh tật", chuyên gia này cho hay.
Yvonne Su, Giáo sư tại Trường Y Đại học Quốc gia Singapore cho biết, có rất ít bằng chứng cho thấy virus giảm độc lực qua thời gian và việc dịch bệnh giảm tác động có thể là kết quả từ việc tăng miễn dịch qua việc từng mắc bệnh hoặc tiêm vaccine.
“Tỷ lệ tiêm vaccine cao là điều then chốt để quy lại cuộc sống bình thường. Tỷ lệ tiêm vacicne cần phải tăng lên nếu chúng ta muốn sống chung với virus", chuyên gia Su đánh giá./.