Siết chất lượng đào tạo ngành y: Chuẩn hóa thực hành và kiểm soát điều kiện mở ngành
Nhiều chuyên gia cho rằng muốn bảo đảm an toàn người bệnh, đào tạo bác sĩ phải chuẩn hóa theo mô hình Nội trú, đồng thời siết điều kiện mở ngành y để nâng cao chất lượng nhân lực.
Tại phiên thảo luận gần đây của Quốc hội, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Tri Thức nhấn mạnh: "Bác sĩ Nội trú chính là tinh hoa của tinh hoa trong ngành y". Quan điểm này nhận được sự đồng thuận rộng rãi, củng cố định hướng chuẩn hóa đào tạo bác sĩ theo thông lệ quốc tế. Trước đó, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình cũng khẳng định: "Chỉ có trường y mới được đào tạo bác sĩ".
Thực tế nhiều năm qua cho thấy, chương trình Bác sĩ Nội trú được coi là hình thức đào tạo tinh hoa, tuyển chọn những sinh viên xuất sắc nhất để rèn luyện chuyên sâu trong môi trường bệnh viện. Đây là lựa chọn mang tính vinh dự, nhưng không phải điều kiện bắt buộc để bác sĩ được cấp phép hành nghề. Tuy nhiên, trước yêu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo đảm an toàn người bệnh trong bối cảnh mô hình bệnh tật ngày càng phức tạp, nhiều chuyên gia cho rằng giai đoạn thực hành sau tốt nghiệp cần được thiết kế lại theo hướng tương đương với chương trình Nội trú.
Theo đó, đào tạo Nội trú hoặc một mô hình thực hành chuẩn hóa dựa trên nguyên tắc của Nội trú nên trở thành bước bắt buộc trước khi bác sĩ được hành nghề độc lập, nhằm bảo đảm năng lực lâm sàng vững vàng và giảm rủi ro chuyên môn.
Mặc dù Việt Nam đã có quy định về giai đoạn thực hành sau tốt nghiệp (12 tháng thực hành để cấp giấy phép hành nghề, 12 tháng làm việc và 24 tháng học CKI với một số vị trí lâm sàng), nhưng theo chia sẻ của nhiều bác sĩ, mô hình hiện nay có thể vẫn chưa tạo được quãng thời gian thực hành đủ "dày" để bác sĩ trẻ tích lũy kinh nghiệm thực tế một cách vững vàng. Đây được xem là một khoảng trống khiến câu chuyện chuẩn hóa đào tạo sau tốt nghiệp được quan tâm hơn. Nhiều ý kiến đề xuất rằng quá trình chuẩn hóa này nên gắn với lộ trình đổi mới do Bộ Y tế chủ trì, vừa phù hợp điều kiện thực tiễn, vừa hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế.
Đào tạo thực hành phải trở thành nền tảng bắt buộc
Với kinh nghiệm nhiều năm trong lĩnh vực ngoại khoa ở TP.HCM, chia sẻ với PV Báo Sức khỏe và Đời sống, BSCKII Nguyễn Quang Thiện cho rằng chương trình BSNT cần được nhìn nhận không chỉ là vinh dự mà phải trở thành giai đoạn thực hành bắt buộc để bác sĩ có thể chịu trách nhiệm chuyên môn độc lập.
Ông phân tích: "Tại nhiều quốc gia có nền y học phát triển, không có mô hình nào cho phép bác sĩ chỉ sau 6 năm đại học được hành nghề độc lập. Nội trú là bước đào tạo bắt buộc, giúp bác sĩ rèn luyện thực hành, tích lũy đủ số lượng ca bệnh và hoàn thiện kỹ năng chuyên môn dưới sự giám sát chặt chẽ".

Ảnh minh họa.
Theo BSCK II Nguyễn Quang Thiện, việc coi trực cấp cứu hay phẫu thuật là "đặc quyền" của một nhóm nhỏ sẽ tạo ra khoảng cách chất lượng lớn trong toàn hệ thống. Nếu muốn bảo đảm an toàn người bệnh, bác sĩ tuyến đầu cần được đào tạo thực chiến và có đủ năng lực xử trí độc lập trong các tình huống lâm sàng phức tạp. Ông nhấn mạnh, sức mạnh của hệ thống y tế không nằm ở số lượng bằng cấp sau đại học, mà dựa vào đội ngũ bác sĩ lâm sàng được đào tạo bài bản và có đủ thực hành chuyên môn.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, BSCKII Nguyễn Quang Thiện đề xuất xây dựng BSNT thành tiêu chuẩn tối thiểu với bác sĩ hành nghề độc lập, đặc biệt ở các chuyên ngành lâm sàng can thiệp. Việc này đòi hỏi chuẩn hóa chương trình đào tạo, xác định rõ năng lực đầu ra, thời gian thực hành và số lượng ca bệnh tối thiểu. Đồng thời, cần mở rộng quy mô đào tạo Nội trú đi đôi với bảo đảm chất lượng, tạo cơ hội để sinh viên y khoa sau tốt nghiệp đều có thể tham gia rèn luyện chuyên sâu.
"Khi đào tạo Nội trú trở thành nền tảng thống nhất cho đội ngũ bác sĩ, chất lượng khám chữa bệnh sẽ được nâng lên, góp phần củng cố niềm tin của người dân và nâng tầm y học Việt Nam", ông nhận định.
Kiểm soát chất lượng đầu vào - điều kiện cấp thiết
Cùng quan điểm về yêu cầu chuẩn hóa, trao đổi với PV Báo Sức khỏe và Đời sống, TS. Lê Đông Phương, nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu giáo dục ĐH, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (Bộ GD&ĐT) cho rằng, việc Quốc hội thảo luận quy định "chỉ trường y mới được đào tạo bác sĩ" là phù hợp với bối cảnh hiện nay khi gần đây một một số trường đại học, nhất là các trường tư ồ ạt mở thêm ngành khoa học sức khỏe, chủ yếu là đào tạo bác sĩ đa khoa. Trong khi đó nhiều đơn vị không có bệnh viện thực hành, điều kiện đảm bảo không đủ, vấn đề cơ sở vật chất, giảng viên cũng thiếu, dẫn đến e ngại của nhiều người về chất lượng đào tạo nhân lực ngành y tế.
"Ngành y liên quan trực tiếp đến việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, nếu đào tạo không đảm bảo, hay nói cách khác là chất lượng kém sẽ dẫn đến rất nhiều hệ lụy. Do đó, vấn đề này rất cần phải cân nhắc, suy tính", TS. Lê Đông Phương cho hay.
Tuy nhiên, ông cũng nhìn nhận, cần định nghĩa rõ ràng về khái niệm "thế nào là trường y". Ông phân tích, các trường y độc lập như mô hình truyền thống có lợi thế rất lớn về chuyên môn khi tập trung đào tạo các ngành khoa học sức khỏe. Nhưng trong thời đại công nghệ số, công nghệ 4.0, trí tuệ nhân tạo như hiện nay, nếu trường đại học y hay khoa y nằm trong các đại học đa ngành sẽ có thêm lợi để tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Đây cũng là điều phải cân nhắc, đặc biệt trong thời đại công nghệ, khi các lĩnh vực khoa học kỹ thuật đã thâm nhập vào tất cả lĩnh vực khác.
Mặt khác, cũng cần đặt câu hỏi nếu chỉ giới hạn trong những trường y độc lập thì khả năng đáp ứng tỷ lệ số nhân lực y tế trên số dân có thể đảm bảo hay không. "Để triển khai hiệu quả thì phải có chính sách tăng quy mô đào tạo ngành y và có giải pháp để gắn kết đào tạo với các ngành khoa học kỹ thuật khác", TS. Lê Đông Phương nêu quan điểm.












