Số hóa để phát triển nông nghiệp bền vững - Bài 2: Bài toán cân não

Câu chuyện chuyển đổi số trong nông nghiệp Cà Mau không chỉ là hành trình số hóa những ao tôm, thửa ruộng, mà là quá trình 'số hóa tư duy', điều này không dễ dàng, khi thói quen canh tác thủ công, truyền thống đã ăn sâu vào máu thịt của người nông dân bao đời.

Ao tôm, cánh đồng vào... điện thoại

Ở vùng đất tận cùng cực Nam Tổ quốc, những trang trại nuôi tôm công nghệ cao nay đã được theo dõi bằng... điện thoại thông minh. Chỉ cần vài thao tác, người nuôi có thể biết độ mặn, pH, nhiệt độ nước, lượng oxy hòa tan hay tình trạng quạt nước, những chỉ số mà trước đây chỉ có thể “cảm” bằng kinh nghiệm.

Tại xã Quách Phẩm Bắc, huyện Ðầm Dơi, ông Trần Văn Lập, một hộ nuôi tôm quảng canh cải tiến, phấn khởi cho biết: “Giờ tôi không cần thức canh đêm như xưa. Ðiện thoại báo là tôi biết ao nuôi nào có vấn đề”.

Không dừng lại ở con tôm, nhiều mô hình lúa thông minh tại huyện Thới Bình, cũng bắt đầu được ứng dụng thiết bị cảm biến, camera giám sát, hệ thống điều tiết nước tự động. Mô hình sản xuất gắn mã QR truy xuất nguồn gốc lúa sạch ST24, ST25 đã góp phần nâng giá trị sản phẩm, mở đường xuất khẩu sang thị trường khó tính.

Ðể nông dân từ bỏ phương thức sản xuất truyền thống, thực hiện "số hóa" hoàn toàn, vẫn cần nhiều thời gian.

Ðể nông dân từ bỏ phương thức sản xuất truyền thống, thực hiện "số hóa" hoàn toàn, vẫn cần nhiều thời gian.

Anh Trần Văn Tính, xã Trí Lực, huyện Thới Bình liên tục nhiều năm liền được xã, huyện tuyên dương nhờ phấn đấu tiếp cận công nghệ số. Anh Tính luôn là người đi đầu trong trồng lúa hữu cơ bảo vệ môi trường, nuôi tôm theo quy trình chuẩn quốc tế của các công ty xuất khẩu thủy sản... Mỗi năm thu nhập của anh từ lúa, tôm dao động khoảng 300 triệu đồng; anh còn tự lắp đặt hệ thống tưới tiêu tự động cho vườn rau và cây ăn trái tại nhà để tự cung cấp thực phẩm sạch cho gia đình.

Anh Tính chia sẻ: “Giờ ngày nào tôi cũng mở phần mềm nông nghiệp (CaMauAgri) để theo dõi diễn biến thời tiết, giá cả thị trường, tham khảo kỹ thuật canh tác cũng như sử dụng thuốc sao cho an toàn và hiệu quả. Giờ không rời được điện thoại vì cứ cách một tiếng đồng hồ là mở ra xem thông tin, cập nhật nhật ký điện tử canh tác. Chưa kể, có những nhóm Zalo, các anh em giỏi kinh nghiệm còn quay các clip chi tiết hướng dẫn kỹ thuật canh tác, ngâm giống... hoặc trả lời những vấn đề khó mà mình gặp phải”.

Dù đã có những bước đi tích cực, nhưng thực tế tại Cà Mau cho thấy chuyển đổi số trong nông nghiệp vẫn đang gặp vô vàn trở lực. Trước hết là vấn đề nhận thức. Không ít nông dân vẫn chưa tin rằng điện thoại thông minh có thể thay đôi mắt, thay đôi tay, thay kinh nghiệm,... cho nông dân. Họ ngại đổi mới, ngại chi phí, sợ thất bại.

Ông Hà Minh Sữa, Phó chủ tịch UBND xã Trí Lực (huyện Thới Bình) chia sẻ: “Người dân có tâm lý “nghe nhiều mà chưa thấy”, nên cái khó là phải có mô hình mẫu, cán bộ phải xuống tận hộ, cùng họ vận hành thiết bị, phân tích lợi ích rõ ràng thì mới mong thuyết phục được”.

Thực tế cho thấy, những mô hình chuyển đổi số thành công ở Cà Mau đều có điểm chung là sự đồng hành mạnh mẽ từ chính quyền địa phương, doanh nghiệp và cơ sở hạ tầng viễn thông. Tập đoàn Viettel, VNPT đã phủ sóng 4G rộng khắp, hỗ trợ nhiều giải pháp phần mềm cho quản lý nông nghiệp. Các phòng nông nghiệp và môi trường của các huyện tích cực giới thiệu, đào tạo, “cầm tay chỉ việc” để nông dân làm quen với máy móc, công nghệ.

Tuy nhiên, việc triển khai phần mềm và các thiết bị công nghệ đòi hỏi một khoản đầu tư đáng kể, gây khó khăn cho nông dân. Nhiều nông dân, đặc biệt là người lớn tuổi, gặp khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng các phần mềm mới và một bộ phận nông dân còn nặng về phương pháp canh tác truyền thống, ngại thay đổi.

Ông Trần Văn Trung, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Cà Mau, cho biết: "Ở nhiều vùng nông thôn, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, hạ tầng Internet và điện lưới còn hạn chế, gây khó khăn cho triển khai và sử dụng phần mềm. Việc tích hợp các phần mềm khác nhau hoặc với các hệ thống hiện cũng gặp nhiều thách thức kỹ thuật. Ngoài ra, các phần mềm hiện có đôi khi chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu đặc thù của từng loại cây trồng, vật nuôi hoặc quy mô sản xuất. Thiếu đội ngũ kỹ thuật có chuyên môn để hỗ trợ và bảo trì, hệ thống phần mềm ở khu vực nông thôn có thể bị gián đoạn. Ðáng nói hơn, nhiều phần mềm hiện nay được thiết kế cho các trang trại và doanh nghiệp nông nghiệp lớn, chưa thực sự phù hợp với đặc điểm sản xuất nhỏ lẻ, quy mô nông hộ".

Nông dân ứng dụng công nghệ, điều khiển máy bay phun thuốc trừ sâu cho vườn cây ăn trái.

Nông dân ứng dụng công nghệ, điều khiển máy bay phun thuốc trừ sâu cho vườn cây ăn trái.

"Nút thắt" hạ tầng, nhân lực

Cà Mau có gần 1,5 triệu dân, trong đó lực lượng lao động nông nghiệp chiếm hơn 60%. Tuy nhiên, phần lớn chưa được tiếp cận đầy đủ kỹ năng số. Ðào tạo lực lượng nông dân “biết dùng điện thoại thông minh” là một chặng đường dài, chưa kể chi phí đầu tư thiết bị cảm biến, hệ thống giám sát vẫn còn cao so với khả năng của đại bộ phận hộ sản xuất nhỏ lẻ. Về hạ tầng số, tuy đã có mạng phủ sóng đến tận xã, ấp, nhưng tốc độ truy cập ở vùng sâu còn chậm, gây cản trở trong vận hành các phần mềm quản lý dữ liệu canh tác. Một vấn đề khác là thiếu dữ liệu chuẩn hóa. Hiện nay, dữ liệu đất đai, thổ nhưỡng, khí tượng, dịch bệnh còn phân tán, thiếu cập nhật và chưa có nền tảng dùng chung, gây khó khăn trong việc ra quyết định tự động.

Ông Nguyễn Văn Quân, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường, chia sẻ thêm về các rủi ro khi chuyển đổi số: "Ðầu tiên phải kể đến là rủi ro về dữ liệu. Việc thu thập, quản lý và sử dụng dữ liệu trong nông nghiệp cần đảm bảo an toàn và bảo mật, tránh tình trạng dữ liệu bị rò rỉ hoặc sử dụng sai mục đích. Bên cạnh đó, chúng ta cũng gặp rủi ro về công nghệ như: các thiết bị và phần mềm công nghệ có thể gặp sự cố hoặc không tương thích, ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình số hóa. Ðiển hình như một số hộ nông dân không sử dụng điện thoại thông minh hoặc điện thoại có hệ điều hành không tương thích dẫn đến không thể cài phần mềm ứng dụng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tiếp đến là rủi ro về thị trường. Mặc dù đã có những bước tiến trong số hóa, nhưng việc tiếp cận thị trường và quảng bá sản phẩm qua các sàn thương mại điện tử của các HTX và hộ sản xuất kinh doanh vẫn còn hạn chế, chưa đạt hiệu quả cao”.

Một số nông dân tự mày mò tìm hiểu các phần mềm số trong nông nghiệp để bắt kịp nhịp sản xuất số hóa.

Một số nông dân tự mày mò tìm hiểu các phần mềm số trong nông nghiệp để bắt kịp nhịp sản xuất số hóa.

Trên thực tế, không có doanh nghiệp tham gia thì chuyển đổi số lĩnh vực nông nghiệp chỉ là giấc mơ. Tại Cà Mau, một số doanh nghiệp đã tiên phong đầu tư mô hình nông nghiệp số khép kín, từ sản xuất đến tiêu thụ. Trung tâm Giống nông nghiệp tỉnh Cà Mau đang phát triển nền tảng theo dõi sinh trưởng cây lúa bằng AI, giúp dự báo năng suất theo vùng. Công ty Tôm Sú Việt Nam sử dụng công nghệ blockchain truy xuất nguồn gốc, đảm bảo minh bạch chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, việc kết nối doanh nghiệp với nông dân còn lỏng lẻo. Không ít nơi, sau khi dự án kết thúc, mô hình công nghệ bị bỏ xó do thiếu đơn vị duy tu, hỗ trợ kỹ thuật. Từ đó đặt ra yêu cầu cần một cơ chế “chia sẻ rủi ro” giữa Nhà nước - doanh nghiệp - nông dân. Các mô hình hợp tác công tư (PPP) cần được khuyến khích phát triển để bảo đảm tính bền vững.

Một trong những chìa khóa mở cánh cửa chuyển đổi số nông nghiệp chính là “chữ tín số”. Khi sản phẩm nông nghiệp của người dân gắn với mã định danh, gắn dữ liệu sản xuất, truy xuất rõ ràng thì chính họ đang tạo dựng uy tín trong một thị trường ngày càng minh bạch và khắt khe. Tại xã Nguyễn Phích, huyện U Minh, mô hình nuôi cá đồng gắn mã QR đã giúp người dân bán được giá cao hơn 20-30% so với trước.

Rõ ràng, bài toán chuyển đổi số trong nông nghiệp không thể giải bằng một phép tính duy nhất. Nó là hệ phương trình đồng thời giữa hạ tầng, nhận thức, vốn, dữ liệu và sự đồng hành của các chủ thể trong chuỗi giá trị. Cà Mau đã có những bước khởi đầu, nhưng để số hóa thực sự trở thành công cụ “vượt rủi ro, phát triển bền vững”, cần những chính sách linh hoạt, sát thực tế địa phương, và trên hết là sự kiên trì trong thay đổi tư duy sản xuất từ “truyền thống” sang “số hóa”.

Ông Nguyễn Chí Thiện, Giám đốc Sở Công thương, cho biết: “Ðể khắc phục những khó khăn trên, Sở đã đề xuất các chính sách hỗ trợ cụ thể, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ, nâng cao nhận thức và kỹ năng số cho người dân, cũng như thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành hiệu quả nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp một cách bền vững. Việc triển khai chuyển đổi số trong nông nghiệp đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành như: Sở Công thương, Sở Nông nghiệp và Môi trường, Sở Khoa học và Công nghệ. Tuy nhiên, hiện nay, cơ chế phối hợp còn chưa rõ ràng, dẫn đến việc triển khai các chương trình, dự án thiếu đồng bộ và hiệu quả chưa cao”.

Bức tranh số hóa nông nghiệp ở Cà Mau hiện lên không chỉ bằng gam màu thách thức, mà còn thấp thoáng ánh sáng của những bước khởi đầu. Ở đó, có những doanh nghiệp, HTX đang nỗ lực vượt lên để “gạn đục khơi trong”. Nhưng vượt rào cản công nghệ mới chỉ là một nửa cuộc chơi. Ðể số hóa thật sự bén rễ vào sản xuất và thị trường, rất cần một hệ sinh thái đồng hành, nơi chính quyền, doanh nghiệp, nhà khoa học, nông dân cùng bắt tay định hình tương lai số cho nông nghiệp tỉnh cực Nam./.

Lam Khánh - Hoàng Vũ

Bài cuối: Nhìn về tương lai đầy triển vọng

Nguồn Cà Mau: https://baocamau.vn/so-hoa-de-phat-trien-nong-nghiep-ben-vung-bai-2-bai-toan-can-nao-a39343.html