Sớm chuyên nghiệp hóa nghề giám tuyển nghệ thuật
Một tác phẩm nghệ thuật hiện hữu trọn vẹn không chỉ do nghệ sĩ sáng tạo mà còn rất cần sự tiếp nhận của công chúng. Giám tuyển chính là cầu nối, người dẫn dắt sự gặp gỡ tác phẩm và công chúng.
Trong sự phát triển của nghệ thuật đương đại, giám tuyển đang trở thành một lực lượng quan trọng, nhưng ở Việt Nam, vị trí này vẫn chưa có chỗ đứng xứng đáng khi chưa được định hình, định danh.
Loay hoay tìm vị thế
Ở nước ta, thuật ngữ “giám tuyển” (curator) chỉ bắt đầu xuất hiện từ đầu thập niên 2000, khi một vài nghệ sĩ thị giác tiên phong ứng dụng vào thực tế. Trước đó, nghề này hầu như không có chỗ đứng trong hệ thống mỹ thuật Việt Nam. Ngay trong giới chuyên môn, khái niệm giám tuyển vẫn dễ bị đánh đồng với người tổ chức sự kiện hay điều phối hành chính, thay vì là người tạo ra mạch dẫn tư tưởng, dựng nên cấu trúc nội dung của toàn bộ triển lãm.
Trong quan niệm của lĩnh vực nghệ thuật đương đại thế giới, giám tuyển là mắt xích chiến lược. Không còn đứng sau hậu trường, giám tuyển trở thành người cầm nhịp, định hình tinh thần và đường đi của một sự kiện nghệ thuật.

Nghệ sĩ, giám tuyển Nguyễn Thế Sơn (ngoài cùng, bên phải) giới thiệu với công chúng về dự án nghệ thuật cộng đồng phường Phúc Tân (Hoàn Kiếm, Hà Nội). Ảnh: THANH TÙNG
Mặc dù đã ra đời hơn 20 năm ở Việt Nam, hiện nay, nghề giám tuyển không có cơ sở đào tạo chính quy, không giáo trình bài bản, không hành lang pháp lý rõ ràng. Hầu hết giám tuyển trong nước là những người đi ngang sang nghề: Từ nghệ sĩ thực hành, nhà nghiên cứu, thậm chí là người làm báo chí-truyền thông, sau nhiều năm thử nghiệm mà thành danh. Một số ít được đào tạo tại nước ngoài, nhưng khi trở về lại phải “bơi” trong một không gian nghệ thuật thiếu hụt nền móng tri thức và cơ sở hạ tầng nâng đỡ.
Sự thiếu vắng nền tảng đã để lại hậu quả nhãn tiền. Không ít triển lãm được tổ chức rình rang nhưng lại thiếu chuẩn mực từ lựa chọn tác phẩm đến thông điệp tổng thể. Có triển lãm bị tố đạo nhái, có sự kiện bị phản ứng vì nội dung phản cảm, cũng có trường hợp rơi vào khủng hoảng truyền thông, tất cả đều có dấu vết của công tác giám tuyển non yếu, cảm tính, thiếu chiều sâu.
Trong nghệ thuật truyền thống, vai trò giám tuyển gần như vô hình. Các đơn vị tổ chức sự kiện phần lớn chỉ dừng ở mức thu nhận tác phẩm, trưng bày theo cảm quan, không có định hướng tư tưởng hay chủ đề xuyên suốt. Trong khi đó, nghệ thuật đương đại yêu cầu một cách tiếp cận khác: Chủ động thiết kế nội dung, lựa chọn nghệ sĩ, dẫn dắt câu chuyện từ đầu đến cuối. Không có giám tuyển giỏi, khó có triển lãm nghệ thuật đột phá.
Có thể nói giám tuyển hôm nay không còn là người lựa tranh treo tường, tìm tượng để trưng bày. Họ là người thiết kế trải nghiệm thị giác, là “kiến trúc sư” của không gian nghệ thuật. Điều đầu tiên và tất yếu, giám tuyển cần phải có thẩm mỹ tinh tường, tiếp đến là tư duy phản biện vững vàng, khả năng quản lý, kết nối cộng đồng và truyền thông hiệu quả. Họ phải đủ bản lĩnh để dẫn dắt công chúng bước vào một hành trình cảm thụ nghệ thuật mới.
Hơn 20 năm kể từ khi các hoạt động mỹ thuật quốc tế đặt chân vào Việt Nam, giám tuyển nghệ thuật vẫn là chiếc bóng mờ. Ngoài một vài gương mặt gây tiếng vang, phần lớn vẫn hoạt động đơn lẻ, thiếu liên kết, thiếu bệ đỡ chính sách. Nguồn đầu tư cho nghệ thuật chưa nhiều, khung pháp lý chưa theo kịp thực tiễn, khiến con đường phát triển nghề giám tuyển tại Việt Nam vẫn chưa được như kỳ vọng.
Từ kiến tạo tới tiên phong
Nếu nghệ sĩ tạo ra tác phẩm thì giám tuyển “thắp sáng” chúng, đưa ra khỏi giới hạn những cuộc trưng bày để chạm tới chiều sâu tư tưởng. Giữa bối cảnh nghệ thuật đương đại vận hành mạnh mẽ, vai trò của giám tuyển là người kiến tạo nhịp điệu, đặt ra câu hỏi và dẫn dắt sự đối thoại giữa nghệ thuật với công chúng.
Nghệ sĩ thị giác Nguyễn Như Huy nhìn nhận: Nếu phê bình nghệ thuật truyền thống đặt câu hỏi “cái gì?”, thì giám tuyển phải hỏi “như thế nào?”. Họ không đi tìm bản chất cố định mà theo đuổi khả năng biểu đạt, lan tỏa, cũng như tác động xã hội của nghệ thuật.
Từ trải nghiệm cá nhân, nghệ sĩ Vũ Đức Toàn, người gắn bó với thực hành nghệ thuật gần hai thập kỷ, cho biết: Năm 2007, khái niệm giám tuyển còn mờ nhạt ngay trong các lớp mỹ thuật chính quy. Nhưng bước sang thập niên 2010, theo làn sóng mở rộng của thị trường nghệ thuật, vai trò giám tuyển dần lộ diện, đặc biệt tại các không gian nghệ thuật độc lập, nơi giới trẻ tìm đến ngày một đông. Dẫu vậy, theo anh, nếu thiếu nền tảng lý luận vững vàng và giáo dục chuyên sâu, giám tuyển khó lòng trở thành một nghề thực thụ, chứ chưa nói đến chuyện chuyên nghiệp hóa.
Trong khi đó, nghệ sĩ, giám tuyển Nguyễn Thế Sơn, người đảm nhận vai trò giám tuyển trong nhiều dự án nghệ thuật cộng đồng, coi giám tuyển như một hình thức mở rộng chính bản thân nghệ thuật. Với các dự án nghệ thuật ở quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) là “Chuyện đình trong phố”, nghệ thuật công cộng phố đi bộ Phùng Hưng, nghệ thuật cộng đồng phường Phúc Tân, vai trò giám tuyển không dừng lại ở sắp đặt tác phẩm, mà đi xa hơn là làm cầu nối giữa lịch sử và hiện tại, đánh thức ký ức tập thể và khơi gợi đối thoại xã hội thông qua nghệ thuật.
Sự kiêm nhiệm giữa nghệ sĩ và giám tuyển như trường hợp Nguyễn Thế Sơn không phải là cá biệt. Đây là thực tế phổ biến trong bối cảnh Việt Nam chưa có một hệ sinh thái nghề giám tuyển đúng nghĩa. Những người nghệ sĩ buộc phải kiêm luôn vai trò tổ chức, thiết kế nội dung, định hướng thẩm mỹ và dẫn dắt công chúng. Ưu điểm là sự thấu hiểu quy trình sáng tác và tâm lý nghệ sĩ. Nhưng đi kèm với đó là áp lực lớn về kỹ năng tổng hợp: Từ thẩm mỹ, lý luận, gọi vốn đến quản lý sự kiện, truyền thông và thiết kế trải nghiệm công chúng.
Nhưng từ những nỗ lực đơn lẻ ấy, một thế hệ giám tuyển mới đang dần hình thành. Họ không được đào tạo bài bản, nhưng học qua thực tiễn. Họ không có định danh chuyên môn rõ ràng, nhưng từng ngày một tự dựng nên vai trò của chính mình bằng việc tổ chức, thử nghiệm và tranh biện. Những diễn đàn nhỏ, những không gian nghệ thuật độc lập, những chia sẻ kinh nghiệm cá nhân, tất cả đang khớp từng mảnh ghép còn thiếu của nghề giám tuyển tại Việt Nam.
Không gian cho phát triển
Không có không gian, không có người xem, giám tuyển sẽ đứng ở khoảng trống không biết đi đâu và kể chuyện không ai lắng nghe. Sự hụt hơi từ phía nguồn đào tạo nhân lực chất lượng cao đã đẩy các nghệ sĩ và giám tuyển vào thế buộc phải tự kiến tạo môi trường hoạt động. Họ vừa nghĩ ý tưởng, vừa tổ chức không gian, vừa gánh lấy mọi vai trò điều phối. Từ một không gian nghệ thuật như Mơ Đơ (Huế) cho đến các dự án nghệ thuật cộng đồng quy mô ở phường Phúc Tân (Hà Nội), những sáng kiến độc lập dần mọc lên khỏa lấp thiếu sót cho cơ chế vận hành chưa hoàn thiện.
Điểm chung nổi bật của các sáng kiến này là tính linh hoạt cao, khả năng tự vận hành mạnh mẽ. Không cần bảo tàng hoành tráng hay phòng triển lãm chuẩn mực, nghệ thuật vẫn có thể bén rễ từ đình làng, phố cổ, thậm chí góc vỉa hè. Ở đó không có rào cản thưởng ngoạn. Những buổi thảo luận, trưng bày, tranh luận, thử nghiệm diễn ra trong không khí cởi mở để rồi nuôi dưỡng một hệ sinh thái sáng tạo tuy mong manh nhưng đầy sinh khí.
Nhà quản lý nghệ thuật Lê Thuận Uyên thừa nhận: Làm triển lãm ở Việt Nam đồng nghĩa với việc làm tất cả. Giám tuyển hôm nay không chỉ là người chọn tác phẩm mà là người viết lý luận, tổ chức chương trình, giáo dục công chúng và hoạch định chiến lược cho không gian nghệ thuật. Một mô hình đa năng, vừa đòi hỏi sức bền sáng tạo, vừa yêu cầu khả năng quản trị linh hoạt nếu muốn tồn tại trong môi trường độc lập.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận những rủi ro đang rình rập. Tính tự phát, thiếu định hướng dài hạn và sự phụ thuộc quá nhiều vào cá nhân khiến nhiều không gian nghệ thuật “chết yểu” sau vài mùa triển lãm. Việc các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào đời sống nghệ thuật là dấu hiệu tích cực, nhưng đồng thời cũng đặt ra bài toán: "Làm sao cân bằng giữa tinh thần sáng tạo và áp lực thương mại?".
Sự hình thành của các cộng đồng nghệ thuật tự tổ chức là cách phản ứng lại với thiếu thốn, cũng là tuyên ngôn rằng nghệ thuật có thể sinh sôi ngay cả trong điều kiện bất lợi, miễn còn người tin vào nó. Xây dựng hạ tầng và cộng đồng, suy cho cùng, chính là hình thức giám tuyển ở cấp độ nền móng, nơi giám tuyển không chỉ kể câu chuyện của nghệ sĩ, mà còn viết tiếp câu chuyện của môi trường nghệ thuật Việt Nam.
Muốn nghệ thuật Việt "vươn ra biển lớn", không thể chỉ trông đợi vào vài gương mặt đơn lẻ. Cần một hệ sinh thái văn hóa vận hành đồng bộ, nơi giám tuyển được đào tạo bài bản, nghệ sĩ được bảo vệ và hỗ trợ, công chúng được tiếp cận nghệ thuật đúng cách và cộng đồng sáng tạo được nuôi dưỡng như một lực lượng bền vững.