Sớm xây dựng bản đồ lũ quét và sạt lở
Các chuyên gia của Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên đã đến khảo sát hiện trường và có những đánh giá ban đầu về nguyên nhân sạt lở tại xã Trà Leng, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam
Theo nghiên cứu của Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên, khu vực nóc ông Đề, nơi xảy ra thảm họa sạt lở khiến 22 người chết và mất tích là khu vực có địa hình dốc, phân cắt mạnh, cấu tạo nền đất bở rời, nằm trên nền đá gốc nên dễ gây sạt, trượt.
Khó dự báo sạt lở
Các chuyên gia khoa học ghi nhận trước khi sạt lở, khu vực trên có mưa lớn kéo dài hơn 16 ngày (từ ngày 6 đến 22-10). Việc này khiến đất bị bão hòa. Đến khi gặp trận mưa lớn ngày 27 và 28-10 trong bão số 9 với gần 180 mm thì đất như một khối bùn lỏng lao nhanh xuống phía dưới. Sạt lở tạo ra một trận lũ quét kéo theo đất đá, cây cối chắn ngang cống thoát nước dẫn tới dòng bùn đá đã chuyển hướng sang bờ phải lao vào khu dân cư, cuốn theo tất cả những gì trên đường đi của nó, tạo ra thảm họa kinh hoàng.
Ông Hoàng Ngọc Tuấn, Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên, cho rằng việc dự báo lũ quét, sạt lở đất là rất hó mà chỉ có thể cảnh báo, xác định vùng có nguy cơ và không thể cảnh báo chính xác thời điểm diễn ra. Giải pháp trước mắt là địa phương cần rà soát ngay các khu vực có nguy cơ sạt lở đất cao theo khuyến cáo của các cơ quan chuyên môn và theo dõi dự báo mưa của đài khí tượng thủy văn để di dời dân đến nơi an toàn.
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên thì huyện Nam Trà My có khoảng 15 điểm nguy cơ cao tập trung tại các xã Trà Leng, Trà Vân, Trà Mai, Trà Don... Huyện Bắc Trà My có khoảng 30 điểm nguy cơ cao tập trung tại thị trấn Trà My, xã Trà Bui, Trà Sơn, Trà Giáp, Trà Giác. Huyện Phước Sơn có khoảng 13 điểm nguy cơ cao tập trung tại thị trấn Khâm Đức, các xã Phước Lộc, Phước Thành, Phước Xuân. Huyện Tây Giang có một số điểm nguy cơ cao tập trung tại các xã A Tiêng, A Vương, Ch’ơm, Lăng, Dang, Bha Lêê.
Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên kiến nghị cần xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ sạt lở đất tới cấp huyện (tỉ lệ 1/5.000) và cấp xã (tỉ lệ 1/1.000 - 1/2.000). Hiện nay, viện đã xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ sạt lở đất cho 3 huyện (Nam Trà My, Bắc Trà My, Phước Sơn) với tỉ lệ 1/50.000 và toàn tỉnh là 1/100.000. Chính quyền địa phương cần tổ chức tập huấn, hướng dẫn người dân kỹ năng nhận biết về phòng chống thiên tai nói chung và sạt lở đất nói riêng, đặc biệt đưa các kiến thức về phòng chống thiên tai vào chương trình giáo dục phổ thông.
Thừa Thiên - Huế đã từng nghiên cứu về sạt lở
Vào năm 2006, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế đã phê duyệt đề cương Đề án Điều tra, nghiên cứu và xây dựng bản đồ nguy cơ lũ quét và sạt lở đất trên địa bàn toàn tỉnh này, giao cho Chi cục PCLB và quản lý đê điều tỉnh Thừa Thiên - Huế thực hiện.
Ông Phan Thanh Hùng, Chi cục trưởng Chi cục PCLB và quản lý đê điều (Chánh văn phòng Ban Chỉ huy PCTT&TKCN tỉnh Thừa Thiên - Huế), Trần Hữu Tuyên (Đại học Huế), Nguyễn Việt (Đài Khí tượng Thủy văn tỉnh Thừa Thiên - Huế) đã có báo cáo về tình hình lũ quét và trượt lở đất sau khi có một số cuộc điều tra. Báo cáo đưa ra nguyên nhân có thể do tác động của hoạt động kinh tế công trình của con người như tăng cao độ dốc sườn khi thi công các tuyến giao thông, kênh mương, đê đập, khai thác vật liệu xây dựng, khai thác rừng đầu nguồn...; do giảm độ bền khi đất bị bão hòa nước, gia tăng áp lực thủy động của dòng ngầm... vào mùa mưa lũ cũng như quá trình phong hóa đất đá.
"Theo nhận định của chúng tôi, tai biến địa chất trượt lở đất, lũ quét, lũ bùn đá thường xảy ra ở vùng địa hình núi thấp có độ cao từ 250-750 m với độ dốc từ 15- 25% ở A Lưới, Nam Đông, Phú Lộc, Hương Trà và Hương Thủy chiếm khoảng 36% diện tích toàn tỉnh Thừa Thiên - Huế" - báo cáo nêu. Vào thời điểm đó, nhóm nghiên cứu của ông Hùng đã đưa ra cụ thể 17 điểm có khả năng trượt lở đất, 28 điểm lũ quét và sạt lở bờ sông.
Vì vậy, nhóm đã kiến nghị rằng công việc cần làm trước mắt là đề nghị UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế giao cho một số đơn vị xây dựng dự án điều tra, khảo sát, quy hoạch, lập bản đồ các địa điểm có nguy cơ lũ quét và sạt lở đất và đề xuất các biện pháp phòng tránh. Từ đó lập quy hoạch, phân khu chi tiết các điểm dân cư tập trung ở những nơi có khả năng xuất hiện lũ quét, trượt lở đất; xây dựng cột mốc báo lũ, trượt lở đất, lập bản đồ nguy cơ ngập lụt.
Cần có hệ thống cảnh báo sạt lở đất
Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên cho rằng trước nhiều vụ sạt lở gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra gần đây, các địa phương cần xây dựng hệ thống cảnh báo sạt lở đất tại các khu vực dân cư có nguy cơ cao. Bên cạnh đó, cần tăng mật độ trạm đo mưa tự động để nâng cao công tác cảnh báo chính xác hơn. Cần rà soát và đánh giá để đưa ra tỉ lệ các loại rừng trồng, rừng tự nhiên cũng như phương thức khai thác hợp lý để nâng cao chất lượng thảm phủ rừng nhằm hạn chế tối đa các nguy cơ gia tăng lũ lụt, sạt lở đất và lũ quét.
Nguồn NLĐ: http://nld.com.vn/thoi-su/som-xay-dung-ban-do-lu-quet-va-sat-lo-20201110224919072.htm