Sử dụng paracetamol trong quá trình mang thai không liên quan đến tự kỷ ở trẻ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) hiện không có bằng chứng khoa học nào xác nhận mối liên kết giữa tự kỷ và sử dụng paracetamol trong quá trình mang thai.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) mới đây nhấn mạnh rằng hiện chưa có bằng chứng khoa học kết luận nào xác nhận mối liên hệ giữa chứng tự kỷ và việc sử dụng acetaminophen (còn gọi là paracetamol) trong thời kỳ mang thai.
Trên toàn cầu, gần 62 triệu người (tương đương 1/127 người) mắc rối loạn phổ tự kỷ - một nhóm đa dạng các tình trạng liên quan đến sự phát triển của não bộ. Mặc dù nhận thức và khả năng chẩn đoán đã được cải thiện trong những năm gần đây, nguyên nhân chính xác của chứng tự kỷ vẫn chưa được xác định và được hiểu là có nhiều yếu tố có thể liên quan.
Trong thập kỷ qua, đã có nhiều nghiên cứu quy mô lớn được thực hiện nhằm tìm hiểu mối liên hệ giữa việc sử dụng acetaminophen trong thai kỳ và chứng tự kỷ. Cho đến nay, chưa có mối liên hệ nhất quán nào được xác lập.

Sự yêu thương, quan tâm và kiên trì của gia đình giúp chứng tự kỷ ở trẻ được cải thiện. Ảnh BV Nhi TƯ
WHO khuyến nghị tất cả phụ nữ nên tiếp tục tuân theo lời khuyên của bác sĩ hoặc nhân viên y tế, những người có thể đánh giá hoàn cảnh cá nhân và đưa ra khuyến nghị về việc sử dụng thuốc cần thiết. Bất kỳ loại thuốc nào cũng nên được sử dụng thận trọng trong thời kỳ mang thai, đặc biệt là trong ba tháng đầu và theo hướng dẫn của chuyên gia y tế.
Ngoài ra, WHO khẳng định, các nghiên cứu từ nhiều quốc gia đều kết luận, vaccine trẻ em không gây tự kỷ.
Lịch trình tiêm vaccine cho trẻ em được xây dựng dựa trên quy trình chặt chẽ và dựa trên bằng chứng khoa học, có sự tham gia của các chuyên gia toàn cầu.
Theo WHO, vaccine đã cứu sống ít nhất 154 triệu sinh mạng trong 50 năm qua và đang góp phần bảo vệ trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn chống lại 30 bệnh truyền nhiễm. Nếu tiêm chủng bị trì hoãn, gián đoạn hoặc thay đổi mà không có bằng chứng khoa học, nguy cơ bùng phát dịch bệnh sẽ gia tăng, ảnh hưởng không chỉ tới trẻ em mà còn tới cả cộng đồng.
Lịch tiêm chủng cho trẻ em được xây dựng thông qua một quy trình cẩn trọng, toàn diện và dựa trên bằng chứng, có sự tham gia của các chuyên gia toàn cầu và đóng góp từ các quốc gia. Các lịch trình này liên tục được cập nhật theo tiến bộ khoa học và hiện bảo vệ trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn khỏi 30 bệnh truyền nhiễm.
WHO cam kết thúc đẩy mục tiêu này thông qua hợp tác với các đối tác, bao gồm các tổ chức do người tự kỷ lãnh đạo và các tổ chức đại diện cho những người có trải nghiệm thực tế. WHO cũng đồng hành cùng những người sống chung với chứng tự kỷ và gia đình họ - một cộng đồng xứng đáng được đối xử bằng sự tôn trọng và dựa trên bằng chứng, không bị kỳ thị.
Theo WHO, số lượng trẻ mắc rối loạn phổ tự kỷ trên thế giới ngày càng gia tăng, tỷ lệ mắc tự kỷ trên toàn cầu năm 1970 là 1/10.000, đến năm 2000 tỷ lệ trên đã lên đến 1/150 và gần nhất năm 2023 theo CDC Hoa Kỳ tỷ lệ này đã đạt tới 1/36, trong đó tỷ lệ trẻ nam so với nữ là 4/1. Tại Việt Nam theo công bố của Tổng cục Thống kê (tháng 1/2019), có khoảng 1 triệu người rối loạn phổ tự kỷ. Tỷ lệ trẻ mắc rối loạn phổ tự kỷ ước tính là 1% số trẻ sinh ra.
Các chuyên gia cho biết, rối loạn phổ tự kỷ là một rối loạn phát triển thần kinh được đặc trưng bởi sự suy giảm khả năng tương tác và giao tiếp xã hội, các kiểu hành vi lặp đi lặp lại và rập khuôn cũng như sự phát triển trí tuệ không đồng đều. Rối loạn này xuất hiện sớm trong thời thơ ấu, thường là trước khi bắt đầu đi học và ảnh hưởng đến sự phát triển của các chức năng cá nhân, xã hội, học tập và/hoặc nghề nghiệp. Trẻ tự kỷ gặp nhiều khó khăn trong hòa nhập với thế giới xung quanh.
Điều trị rối loạn phổ tự kỷ thường có tính chất đa ngành trong đó các can thiệp tâm lý và giáo dục đặc biệt có vai trò quan trọng nhất. “Thời gian vàng” để can thiệp cho trẻ tự kỷ là trước 3 tuổi - đây là cơ hội để kịp thời giúp tăng khả năng cải thiện triệu chứng, cải thiện chức năng xã hội và giảm khả năng xuất hiện các bất thường khác như rối loạn cảm xúc hành vi, các rối loạn về học tập trong những năm tiếp theo của cuộc đời. Điều trị hóa dược không có tác dụng làm mất các triệu chứng tự kỷ, tuy nhiên nó giúp kiểm soát các tình trạng bất thường cảm xúc hành vi đi kèm, từ đó làm tăng khả năng tập trung chú ý và hiệu quả can thiệp trên trẻ.
Mặc dù tự kỷ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng tới các hoạt động chức năng, chất lượng sống của trẻ như vậy nhưng nếu được phát hiện và can thiệp sớm cùng sự hỗ trợ từ gia đình và cộng đồng, trẻ mắc tự kỷ sẽ có khả năng phát triển các giá trị bản thân, hòa nhập cộng đồng.