Sửa đổi, bổ sung các chính sách chuyên biệt về giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết đang tập trung rà soát các chính sách chuyên biệt về giáo dục và đào tạo đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới để sửa đổi, bổ sung trong các văn bản quy phạm pháp luật, đưa các chủ trương của Đảng vào cuộc sống một cách hiệu quả và ổn định.
Bổ sung loại trường “Phổ thông nội trú” vào Luật Giáo dục
Ngày 18/7/2025, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Thông báo số 81-TB/TW kết luận của Bộ Chính trị về chủ trương đầu tư xây dựng trường học cho các xã biên giới. Tại Kết luận số 81, Bộ Chính trị giao Đảng ủy Chính phủ chỉ đạo Đảng ủy Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các địa phương và cơ quan cơ liên quan tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan theo hướng bảo đảm học sinh ở xã biên giới đất liền được hưởng chính sách nội trú, bán trú phù hợp với thực tiễn khó khăn về địa hình và khoảng cách địa lý.
Để triển khai chủ trương của Đảng, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề xuất bổ sung loại trường “Phổ thông nội trú” vào Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục (khoản 1, Điều 61). Hiện nay, Trường Phổ thông dân tộc nội trú, trường Phổ thông dân tộc bán trú là 2 loại hình trường chuyên biệt được quy định tại Điều 61 Luật Giáo dục 2019, mỗi loại trường có quy định về đối tượng học sinh và các chính sách được ban hành. Trường phổ thông nội trú liên cấp Tiểu học và Trung học cơ sở ở xã biên giới (theo chủ trương của Bộ Chính trị) không đồng nhất với một trong hai loại trường này. Đây là mô hình mới, đối tượng học là học sinh trên địa bàn xã biên giới, bao gồm cả học sinh người Kinh. Do đó, để các trường phổ thông nội trú liên cấp hoạt động hiệu quả và ổn định, cần bổ sung vào các văn bản quy phạm pháp luật các quy định về tổ chức hoạt động của nhà trường và chính sách cho học sinh, giáo viên.

Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ đối với trẻ em, học sinh, sinh viên và cơ sở giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Ảnh: N.Linh
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng tiến hành rà soát, nghiên cứu, đánh giá hệ thống chính sách hiện hành liên quan đến học sinh nội trú, bán trú và đội ngũ giáo viên đang công tác tại các xã biên giới đất liền, kịp thời sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng bảo đảm học sinh ở các xã biên giới đất liền được hưởng chính sách nội trú, bán trú phù hợp với thực tiễn khó khăn về địa hình và khoảng cách địa lý.
Bên cạnh đó, nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động trường phổ thông nội trú liên cấp tiểu học và trung học cơ sở, các chính sách, điều kiện bảo đảm để vận hành, duy trì ổn định, lâu dài hoạt động của trường phổ thông nội trú liên cấp tiểu học và trung học cơ sở; xây dựng phương án bố trí giáo viên, nhân viên trường học phù hợp trên cơ sở rà soát biên chế hiện có và nhu cầu trong thời gian tới; rà soát, nghiên cứu, xây dựng chính sách khuyến khích nhân lực (giáo viên, nhân viên trường học) có chất lượng tham gia phục vụ các xã biên giới phù hợp với điều kiện mới.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới chính sách (nếu có) phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện thực tiễn, hiệu lực, hiệu quả và tuân thủ quy định pháp luật.
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ học sinh và giáo viên
Bộ cũng tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ đối với trẻ em, học sinh, sinh viên và cơ sở giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới đất liền theo chỉ đạo của Trung ương.
Theo đó, sớm xây dựng và trình Chính phủ ban hành các nghị định, đề án: Nghị định quy định chính sách hỗ trợ bữa ăn trưa cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở học ở các xã biên giới đất liền; Nghị định quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 218/2025/QH15 ngày 26/6/2025 của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi; Đề án “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao người dân tộc thiểu số trong một số ngành/nhóm ngành/lĩnh vực: Sức khỏe (chủ yếu là Y khoa và Dược học), Công nghệ thông tin, Nông nghiệp, Tài chính - Ngân hàng, Đào tạo giáo viên, giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
Xây dựng chính sách ưu tiên, hỗ trợ đối với đội ngũ nhà giáo công tác ở các trường chuyên biệt, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (cụ thể hóa các điều khoản được quy định tại Luật Nhà giáo). Bổ sung chính sách đặc thù đối nhằm thu hút, giữ chân và nâng cao năng lực đối với đội ngũ trực tiếp chăm sóc, giáo dục trẻ em vùng dân tộc thiểu số và miền núi: có chế độ phụ cấp trực trưa cho giáo viên mầm non vùng đặc biệt khó khăn, miền núi, dân tộc thiểu số dạy 2 buổi/ngày; có chính sách hỗ trợ tiền đi lại đối với giáo viên dạy tại các điểm trường lẻ bằng 50% mức lương cơ sở. Không tinh giản biên chế cơ học đối với giáo viên mầm non vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung chế độ, chính sách hỗ trợ người dạy và người tham gia công tác xóa mù chữ (tuyên truyền, vận động người học xóa mù chữ) không hưởng lương từ ngân sách nhà nước (già làng, trưởng bản, học sinh, sinh viên...) tại địa bàn các xã vùng dân tộc thiểu số từ kinh phí Chương trình mục tiêu quốc gia 1719. Thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ, chính sách đối với người học, người dạy, người tham gia công tác xóa mù chữ.
Ưu tiên ngân sách đầu tư xây dựng đường nước sinh hoạt, nhà công vụ giáo viên các trường mầm non vùng đặc biệt miền núi, dân tộc thiểu số, biên giới; có chương trình kiên cố hóa trường lớp mầm non đối với khu vực đặc biệt khó khăn, vùng biên giới, hải đảo, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Nghiên cứu, đề xuất chính sách và cơ chế khuyến khích xã hội hóa nhằm tăng cường nguồn đầu tư xã hội cho phát triển giáo dục - đào tạo nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn nói riêng.