Sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân: Xem xét mức giảm trừ gia cảnh phù hợp với thực tế
Thực hiện nhiệm vụ do Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ Tài chính đã lấy ý kiến rộng rãi về dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (thay thế).

Người nộp thuế dùng ứng dụng eTax Mobile, ứng dụng Thuế điện tử dành cho cá nhân để kiểm tra thông tin trên Tờ khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân gợi ý do hệ thống công nghệ thông tin của ngành Thuế tự động tạo lập. Ảnh: Thu Hiền/TTXVN
Thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tổng hợp các ý kiến đóng góp, tiến hành nghiên cứu, đánh giá toàn diện về Luật Thuế thu nhập cá nhân và báo cáo lên Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội để xem xét sửa đổi theo chương trình xây dựng luật. Quá trình này sẽ đảm bảo chính sách thuế phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam và thông lệ quốc tế; trong đó có việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh để đảm bảo công bằng và hợp lý.
Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện hành có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2009, sau đó đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần đã góp phần quan trọng tăng cường kiểm soát, phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư, từng bước quản lý thu nhập của các cá nhân, đồng thời đóng góp nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển, hội nhập và do sự biến động nhanh của nền kinh tế, cần nghiên cứu để rà soát, sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân cho phù hợp với thực tiễn. Một trong những vấn đề được đặc biệt chú trọng là mức giảm trừ gia cảnh, nhằm đảm bảo công bằng trong việc điều tiết thu nhập và hỗ trợ người lao động.
Giảm trừ gia cảnh là số tiền trừ vào thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân khi xác định thu nhập tính thuế dựa trên hoàn cảnh gia đình của người nộp thuế. Quy định giảm trừ xuất phát từ quan điểm đánh thuế thu nhập cá nhân phải đảm bảo sau khi nộp thuế, người nộp thuế có thu nhập để trang trải cuộc sống ở mức trung bình của xã hội.
Theo PGS.TS Lê Xuân Trường, Trưởng Khoa Thuế và Hải quan (Học viện Tài chính), điều này có nghĩa là, xác định mức giảm trừ sao cho sau khi nộp thuế cho nhà nước thì người nộp thuế đảm bảo cuộc sống ở mức cần thiết trung bình xã hội. Từ đó, đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của dân cư và đảm bảo đời sống cho người nộp thuế. Tức là, phần thu nhập còn lại để đảm bảo cuộc sống của người nộp thuế là phần giảm trừ gia cảnh cộng với phần thu nhập còn lại sau khi nộp thuế của phần vượt trên mức giảm trừ gia cảnh.
Từ khi có hiệu lực, Luật Thuế thu nhập cá nhân đã quy định mức giảm trừ đối với người nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm) và mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng. Sau đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2012 đã nâng mức giảm trừ lên 9 triệu đồng/tháng (108 triệu đồng/năm) cho người nộp thuế và 3,6 triệu đồng/tháng cho người phụ thuộc. Đồng thời, quy định bổ sung rằng khi Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng trên 20% so với lần điều chỉnh gần nhất, Chính phủ sẽ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh phù hợp với biến động giá cả.
Lần điều chỉnh gần đây nhất diễn ra vào năm 2020, khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 954/2020/UBTVQH14, nâng mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế lên 11 triệu đồng/tháng (132 triệu đồng/năm) và mức giảm trừ cho người phụ thuộc lên 4,4 triệu đồng/tháng.
Theo Bộ Tài chính, điều này đã góp phần giảm bớt nghĩa vụ thuế cho người lao động và giúp họ giữ lại một phần thu nhập lớn hơn để trang trải cuộc sống.
Về nguyên tắc, quy định mức giảm trừ gia cảnh trong Luật Thuế thu nhập cá nhân nhằm đảm bảo rằng cá nhân có đủ thu nhập để đáp ứng nhu cầu thiết yếu như ăn ở, đi lại, học tập, khám chữa bệnh… mới phải nộp thuế. Theo Bộ Tài chính, hiện tại, mức giảm trừ gia cảnh đang áp dụng cao hơn GDP bình quân đầu người, cao hơn tiền lương tối thiểu vùng và mức chi tiêu bình quân đầu người trong một giai đoạn nhất định.
Bộ Tài chính dẫn số liệu của Tổng cục Thống kê, cho thấy thu nhập bình quân đầu người năm 2023 là 4,96 triệu đồng/tháng, trong khi nhóm 20% dân số có thu nhập cao nhất đạt mức 10,86 triệu đồng/tháng/người. Như vậy, mức giảm trừ hiện tại (11 triệu đồng/tháng) đang cao hơn 2,2 lần thu nhập bình quân đầu người, đồng thời vượt cả mức thu nhập trung bình của nhóm có thu nhập cao nhất.
Ngoài ra, theo số liệu CPI từ năm 2020 đến 2023, mức tăng hàng năm dao động từ 1,84% đến 3,25%, chưa đạt mức 20% để kích hoạt quy định điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo luật hiện hành. Vì vậy, Bộ Tài chính cho biết chưa thể điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh tại thời điểm này.
Bộ Tài chính nhấn mạnh, thuế thu nhập cá nhân không chỉ là công cụ thu ngân sách nhà nước mà còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết thu nhập và thực hiện chính sách phân phối lại. Cùng với các nguồn thu khác, thuế thu nhập cá nhân góp phần đảm bảo an sinh xã hội, đầu tư phát triển và quốc phòng.
Tuy nhiên, theo ý kiến của các chuyên gia mức giảm trừ gia cảnh hiện tại chưa theo kịp thực tế kinh tế - xã hội, cần xem xét điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo hướng phù hợp hơn với thực tế đời sống hiện nay.
Trao đổi với báo chí, TS. Nguyễn Ngọc Tú, Giảng viên Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội cho rằng, cách tính hiện nay dựa trên CPI chung có thể chưa phản ánh chính xác mức sống của người lao động. Bởi theo TS Nguyễn Ngọc Tú, chỉ số CPI bao gồm hơn 700 mặt hàng, trong khi người lao động chủ yếu chi tiêu cho một số mặt hàng thiết yếu như thực phẩm, nhà ở, giáo dục. Nếu mức giảm trừ gia cảnh chỉ điều chỉnh khi CPI tăng trên 20%, thì có thể chưa thực sự phù hợp với thực tế chi tiêu.
PGS.TS Lê Xuân Trường cho biết, khi so sánh mức giảm trừ bản thân của Việt Nam với GDP bình quân đầu người thì mức giảm trừ bản thân của Việt Nam khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Theo đó, nếu so với Indonesia, một nước trong khu vực Đông Nam Á và ở trình độ phát triển tương đương (GDP đầu người của Indonesia năm 2024 là 4.981 USD, còn GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2024 là 4.700 USD) thì mức giảm trừ bản thân người nộp thuế của Việt Nam cao hơn khoảng 50%.
Do đó, PGS.TS Lê Xuân Trường cho rằng trong thời gian tới khi sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân có thể cân nhắc áp dụng một số giải pháp như trong khoảng 5 năm tới nước ta vẫn ở nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình nên cần chấp nhận xác định mức giảm trừ gia cảnh tương đối cao so với GDP. Theo đó, cần xác định mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế sao cho đảm bảo tương đương khoảng 1,5 lần GDP bình quân đầu người. Đồng thời, giữ nguyên nguyên tắc giảm trừ mỗi người phụ thuộc bằng 40% giảm trừ bản thân người nộp thuế.
Bên cạnh đó, bổ sung giảm trừ thêm một mức so với giảm trừ chung cho đối tượng người nộp thuế là người khuyết tật và người phụ thuộc của người nộp thuế là người khuyết tật.
Theo PGS.TS Lê Xuân Trường, môt giải pháp nữa có thể áp dụng là quy định mức giảm trừ gia cảnh được xác định hàng năm theo nguyên tắc điều chỉnh tương đương với chỉ số CPI và giao quyền cho Chính phủ quyết định mức giảm trừ gia cảnh hàng năm.