Sửa đổi quy định xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến đối với Dự thảo Nghị định quy định trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân.

Theo Bộ Tài chính, Nghị định số 29/2018/NĐ-CP ngày 05/3/2018 của Chính phủ quy định trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân được ban hành là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc thực hiện xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân.

Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện Nghị định số 29/2018/NĐ-CP đã thu được những kết quả ban đầu, song vẫn còn tồn tại, vướng mắc trong thực hiện Nghị định. Cụ thể như Nghị định quy định chung một trình tự, thủ tục lập, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án xử lý tài sản dẫn đến một số vướng mắc, không phù hợp đối với một số loại tài sản; trình tự, thủ tục lập, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án xử lý tài sản tại Nghị định chưa phù hợp với thực tiễn của một số lĩnh vực có khối lượng phát sinh rất lớn như: quản lý thị trường, hải quan, công an, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng…

 (Ảnh minh họa)

(Ảnh minh họa)

Bên cạnh đó quy định về thẩm quyền phê duyệt phương án xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân trên cơ sở giá trị tài sản là không phù hợp, dẫn đến phát sinh vướng mắc trong thực hiện. Cụ thể: Theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 29/2018/NĐ-CP thì Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt phương án xử lý đối với tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên/01 đơn vị tài sản.

Tuy nhiên việc xác định thế nào là “đơn vị tài sản” để xác định thẩm quyền phê duyệt phương án xử lý là rất khó khăn đối với một số loại hàng hóa như: xăng dầu, thực phẩm, khẩu trang, hàng tiêu dùng… của một vụ việc xử lý vi phạm hành chính mà tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu. Việc quy định phân cấp thẩm quyền quyết định xử lý theo mức giá trị tài sản như quy định tại Nghị định số 29/2018/NĐ-CP là không còn phù hợp.

Trước những vướng mắc trên, Bộ Tài chính xây dựng Dự thảo Nghị định nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, bổ sung các quy định về các vấn đề chưa có quy định điều chỉnh, giải quyết các vướng mắc phát sinh trong thực tiễn để tăng cường công tác quản lý, sử dụng tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân.

Theo đó tại Điều 1, Điều 2 dự thảo Nghị định quy định phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng trên cơ sở kế thừa quy định tại Nghị định số 29/2018/NĐ-CP, đồng thời rà soát, bổ sung một số loại tài sản thuộc đối tượng xác lập sở hữu toàn dân nhưng chưa được quy định tại Nghị định số 29/2018/NĐ-CP, gồm: Tài sản thuộc về Nhà nước theo quy định tại Khoản 4 Điều 218 Bộ luật Dân sự (cụ thể: Một trong các chủ sở hữu chung đối với bất động sản từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì thì phần quyền sở hữu đó thuộc về Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại).

Tài sản là hàng tạm gửi hành lý hải quan không nhận lại theo quy định tại khoản 6 Điều 59 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP ngày 27/01/2015 của Chính phủ về quy định chi tiết biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan.

Cụ thể: Trong thời hạn tạm gửi hành lý, nếu người xuất cảnh, nhập cảnh có văn bản từ bỏ hành lý tạm gửi hoặc quá thời hạn tạm gửi hành lý nhưng người xuất cảnh, nhập cảnh không nhận lại thì bị xử lý theo quy định của pháp luật. Tiền thu được từ việc thanh lý hàng hóa được nộp vào ngân sách nhà nước sau khi trừ đi các chi phí phát sinh theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó tại Điều 3 dự thảo Nghị định quy định nguyên tắc xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và quản lý, xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân là trên cơ sở kế thừa các nguyên tắc quy định tại Nghị định số 29/2018/NĐ-CP. Đồng thời có bổ sung một số nguyên tắc sau: Tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân và được xử lý theo hình thức giao, điều chuyển thì việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản sau khi tiếp nhận được thực hiện theo quy định khác của pháp luật có liên quan, không quản lý, xử lý theo Nghị định này.

Trường hợp trong điều ước quốc tế do nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc là thành viên có quy định về việc xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.

Việc phê duyệt phương án xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân được thực hiện bằng hình thức Quyết định.

Việc xử lý tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu được thực hiện đối với tài sản của từng vụ việc. Trường hợp giá trị tài sản của một vụ việc dưới 100 triệu đồng/01 vụ việc thì đơn vị chủ trì quản lý tài sản có thể tổng hợp tài sản của nhiều vụ việc để xử lý một lần nhưng thời hạn xử lý tối đa không quá 6 tháng kể từ ngày có quyết định tịch thu của cơ quan, người có thẩm quyền.

Chi tiết dự thảo xem tại đây.

Huyền Châu

Nguồn TCDN: https://taichinhdoanhnghiep.net.vn/sua-doi-quy-dinh-xac-lap-quyen-so-huu-toan-dan-ve-tai-san-d34494.html