Sức bật từ 3.000 km cao tốc và những chuyển động mới của ngành giao thông

Việc hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc vào năm 2025 được đánh giá là dấu mốc quan trọng của ngành giao thông, phản ánh sự thay đổi căn bản về cơ chế, tổ chức triển khai và năng lực thi công, đồng thời mở ra nền tảng mới cho mục tiêu phát triển mạng lưới cao tốc quy mô lớn hơn trong giai đoạn tới...

Một đoạn cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh với 2 hầm xuyên núi là Thất Khê và Đông Khê. Ảnh: Tập đoàn Đèo Cả.

Một đoạn cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh với 2 hầm xuyên núi là Thất Khê và Đông Khê. Ảnh: Tập đoàn Đèo Cả.

Ngày 17/12, Báo Xây dựng tổ chức tọa đàm “Sức bật từ 3.000 km cao tốc” với sự tham gia của các cơ quan quản lý, chuyên gia và nhiều doanh nghiệp giao thông lớn, nhìn lại chặng đường đột phá đầu tư cao tốc giai đoạn vừa qua, đồng thời bàn thảo các giải pháp, cơ chế để tiếp tục mở rộng mạng lưới đường bộ cao tốc hướng tới mục tiêu 5.000 km vào năm 2030.

Phát biểu tại tọa đàm, đại diện các doanh nghiệp thi công lớn đều thống nhất đánh giá việc hoàn thành mục tiêu 3.000 km đường bộ cao tốc vào năm 2025 là dấu mốc mang tính lịch sử của ngành giao thông Việt Nam.

MỘT HÀNH TRÌNH CHƯA TỪNG CÓ TIỀN LỆ

Theo ông Phạm Văn Khôi, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty CP Đầu tư và Xây dựng giao thông Phương Thành, kết quả này không chỉ đến từ nỗ lực của các nhà thầu mà trước hết là từ sự định hướng đúng đắn của Đảng, sự quan tâm của Quốc hội, sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ cùng với sự vào cuộc đồng bộ của các bộ, ngành và địa phương.

Ông Khôi cho biết trong lịch sử đầu tư hạ tầng giao thông, chưa từng có giai đoạn nào các dự án cao tốc được triển khai với tốc độ nhanh như 5 năm trở lại đây, đặc biệt là các dự án trên tuyến cao tốc Bắc – Nam phía Đông. Nếu trước kia, dù nguồn lực không quá khó khăn, việc triển khai một dự án cao tốc vẫn kéo dài nhiều năm, thì hiện nay tiến độ đã được rút ngắn đáng kể.

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Tọa đàm "Sức bật từ 3.000 km cao tốc".

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Tọa đàm "Sức bật từ 3.000 km cao tốc".

Theo đại diện Phương Thành, một trong những yếu tố quan trọng là quyết sách của Chính phủ trong việc phân chia các gói thầu có quy mô lớn, có gói lên tới 5.000 tỷ đồng, đồng thời lựa chọn các nhà thầu đủ năng lực, kinh nghiệm. Kinh nghiệm không chỉ nằm ở năng lực thi công, mà còn ở khả năng tổ chức, phối hợp với các bộ, ngành, chủ đầu tư và chính quyền địa phương để xử lý kịp thời các vướng mắc về giải phóng mặt bằng, vật liệu xây dựng và các điều kiện thi công đặc thù.

Bên cạnh đó, việc áp dụng công nghệ phù hợp với địa hình, địa chất, tối ưu năng suất lao động, giảm sức người, tăng cường cơ giới hóa, chủ động tổ chức tăng ca, tăng kíp trong điều kiện thời tiết thuận lợi đã giúp các dự án rút ngắn tiến độ rõ rệt.

Theo ông Khôi, tinh thần “vượt nắng thắng mưa”, thi công “3 ca 4 kíp” do Thủ tướng Chính phủ phát động đã tạo động lực mạnh mẽ cho các nhà thầu, trong khi các ban quản lý dự án cũng tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tập trung nguồn lực triển khai thi công.

ÁP LỰC TIẾN ĐỘ VÀ BÀI TOÁN TÀI CHÍNH

Từ góc nhìn của doanh nghiệp thi công, ông Nguyễn Hải Vinh, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Thăng Long, cho rằng việc rút ngắn tiến độ các dự án cao tốc đồng nghĩa với khối lượng công việc phải dồn lại trong thời gian ngắn, buộc các đơn vị thi công phải tăng số mũi thi công, huy động thêm thiết bị, phương tiện, nhân lực và chủ động dự trữ vật tư, vật liệu.

Theo ông Vinh, khi các yêu cầu về tiến độ được đẩy lên cao, bài toán cuối cùng mà nhà thầu phải đối mặt chính là bài toán tài chính. Nhu cầu vốn tăng lên trong khi các chi phí phát sinh lớn, đòi hỏi doanh nghiệp phải có năng lực tài chính đủ mạnh để duy trì thi công liên tục.

Ông Nguyễn Hải Vinh, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Thăng Long. phát biểu tại Tọa đàm.

Ông Nguyễn Hải Vinh, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Thăng Long. phát biểu tại Tọa đàm.

“Trong nhiều gói thầu, để đảm bảo tiến độ theo chỉ đạo, chúng tôi đã chấp nhận hy sinh mục tiêu lợi nhuận, tập trung toàn bộ nguồn lực để hoàn thành công trình đúng yêu cầu”, ông Vinh chia sẻ.

Theo đại diện Tổng công ty Thăng Long, để đáp ứng yêu cầu tiến độ, các doanh nghiệp buộc phải phân cấp, phân quyền mạnh hơn trong nội bộ, rút ngắn quy trình ra quyết định, xử lý vấn đề nhanh và trực tiếp hơn.

Một điểm mới trong tổ chức thi công là việc tận dụng công nghệ thông tin. Nhờ các nền tảng họp trực tuyến, ban lãnh đạo doanh nghiệp có thể kết nối tức thời từ trụ sở chính tới các công trường trên cả nước, kịp thời đưa ra quyết định xử lý các vướng mắc phát sinh, qua đó rút ngắn khoảng cách giữa điều hành và thực địa.

Ở góc độ thi công các công trình phức tạp, ông Nguyễn Quang Huy, Tổng giám đốc Tập đoàn Đèo Cả, cho biết việc hoàn thành 3.000 km cao tốc vào năm 2025 là thành tựu rất lớn, trong đó Đèo Cả tự hào được đóng góp một phần quan trọng. Xuất phát điểm là doanh nghiệp thi công hầm xuyên núi, Đèo Cả hiện không chỉ dừng lại ở hầm mà đã từng bước nâng cao năng lực thi công các công trình đường và cầu quy mô lớn.

Đối với dự án thành phần Quảng Ngãi – Hoài Nhơn, ông Huy cho biết đây là dự án có số lượng hầm xuyên núi nhiều nhất trong 12 dự án thành phần cao tốc Bắc – Nam giai đoạn 2. Trong đó, hầm số 3 dài 3,2 km là hầm dài thứ ba trên cả nước, sau hầm Hải Vân và hầm Đèo Cả, dự kiến khánh thành vào ngày 19/12 tới.

Theo ông Huy, ban đầu, với kinh nghiệm thi công hầm, Đèo Cả từng tính toán thời gian thi công hầm số 3 không thể ngắn hơn 48 tháng. Tuy nhiên, trước yêu cầu phải thông tuyến toàn bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông vào tháng 12/2025, doanh nghiệp đã cam kết với Thủ tướng Chính phủ sẽ hoàn thành tiến độ đồng bộ cùng các dự án khác.

Ông Nguyễn Quang Huy, Tổng giám đốc Tập đoàn Đèo Cả, phát biểu tại Tọa đàm.

Ông Nguyễn Quang Huy, Tổng giám đốc Tập đoàn Đèo Cả, phát biểu tại Tọa đàm.

Để hiện thực hóa cam kết này, Đèo Cả đã tổ chức lại phương án thi công, mở rộng không gian trong hầm để tăng số lượng thiết bị, máy móc, cải tiến phương pháp đào hầm, nâng bước đào từ mức 1–3 m lên 4–6 m mỗi chu kỳ, qua đó rút ngắn đáng kể thời gian thi công. Đặc biệt, trong điều kiện thiếu nguồn nước ngầm phục vụ thi công, doanh nghiệp đã sáng kiến giải pháp “tuần hoàn nguồn nước trong thi công hầm”, tái sử dụng hơn 90% lượng nước sau xử lý, giải pháp này đã được đăng ký sở hữu trí tuệ.

TỪ CƠ CHẾ ĐẶC THÙ ĐẾN NỀN TẢNG CHO GIAI ĐOẠN MỚI

Ở góc độ chính sách, PGS.TS Trần Chủng, Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam, nhận định việc hoàn thành 3.000 km cao tốc vào năm 2025 cho thấy sự trưởng thành vượt bậc của ngành giao thông, không chỉ ở năng lực thi công của doanh nghiệp mà còn ở hệ thống cơ chế, chính sách.

Theo PGS.TS Trần Chủng, trước đây, việc “ép tiến độ” thường đi kèm lo ngại về chất lượng công trình. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy, dù tiến độ được đẩy nhanh, các công trình vẫn đảm bảo chất lượng nhờ ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới phương thức quản lý, thi công.

Từ phía cơ quan quản lý nhà nước, ông Lê Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Kinh tế – Quản lý đầu tư xây dựng (Bộ Xây dựng), cho biết qua rà soát các dự án, đặc biệt là cao tốc Bắc – Nam giai đoạn 1, đã nổi lên hàng loạt vấn đề về thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng, chuẩn bị vật liệu, nguồn lực tài chính và huy động nhà thầu. Tuy nhiên, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhiều khó khăn đã được tháo gỡ thông qua các nghị quyết cụ thể của Quốc hội và Chính phủ.

Đáng chú ý, ở cao tốc Bắc – Nam giai đoạn 2, nhiều thủ tục đầu tư được cho phép triển khai song song. Với vai trò tham mưu chuyên môn, Cục Kinh tế – Quản lý đầu tư xây dựng đã tổ chức thẩm tra hồ sơ thiết kế theo phương châm “hồ sơ đến đâu thẩm tra đến đó”, góp phần rút ngắn thời gian chuẩn bị dự án xuống mức kỷ lục.

Ông Lê Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Kinh tế - Quản lý đầu tư xây dựng (Bộ Xây dựng), phát biểu tại Tọa đàm.

Ông Lê Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Kinh tế - Quản lý đầu tư xây dựng (Bộ Xây dựng), phát biểu tại Tọa đàm.

Theo ông Tiến, một yếu tố then chốt làm nên thành công là việc rút ngắn tối đa thời gian giải phóng mặt bằng, cấp phép mỏ vật liệu theo cơ chế đặc thù. Trong suốt quá trình triển khai, Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải, trực tiếp là Bộ Xây dựng, đã thường xuyên bám sát hiện trường, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các vướng mắc phát sinh, đồng thời khơi thông dòng vốn cho các nhà thầu.

Cùng với đó, Cục Kinh tế – Quản lý đầu tư xây dựng đã tham mưu ban hành Thông tư 08 và Thông tư 09 về định mức xây dựng cao tốc, bảo đảm tính đúng, tính đủ cho các dự án, đồng thời chủ trì tham mưu Luật Xây dựng sửa đổi, trong đó có nhiều nội dung đổi mới căn cơ nhằm tăng cường phân cấp, phân quyền, rút ngắn thủ tục hành chính, tạo dư địa cho đầu tư phát triển.

Theo đại diện Bộ Xây dựng, trong thời gian tới, cơ quan quản lý sẽ tiếp tục rà soát, cập nhật hệ thống định mức xây dựng hằng năm, tổ chức tổng kết, đúc rút kinh nghiệm về ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, qua đó tạo nền tảng để hệ thống đường bộ cao tốc Việt Nam tiếp tục mở rộng với các dự án quy mô lớn hơn, hướng tới mục tiêu 5.000 km cao tốc vào năm 2030.

Huỳnh Dũng

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/suc-bat-tu-3000-km-cao-toc-va-nhung-chuyen-dong-moi-cua-nganh-giao-thong.htm