Sức mạnh ngoại giao nghị viện trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc (Kỳ 2): Tích cực, trách nhiệm, toàn diện, chủ động thúc đẩy hiệu quả các lợi ích của Việt Nam qua kênh nghị viện
Ngày 12-11-2024, Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đã họp Phiên toàn thể lần thứ 12 tại Nhà Quốc hội. Năm 2024 sắp trôi qua, cũng là thời điểm để tổng kết lại kết quả hoạt động trong năm. Đặc biệt là cập nhật thông tin về tình hình thế giới, khu vực và công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước năm 2024 và phương hướng hành động trong năm 2025. Theo phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV: 'Đối ngoại Quốc hội được mở rộng với nhiều hoạt động nổi bật, Quốc hội được bầu vào nhiều vị trí quan trọng tại các diễn đàn lớn và uy tín trên thế giới'. Điều này càng được khẳng định rõ hơn khi nhiều đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước đều chung nhận định: 'Ngoại giao Việt Nam là điểm sáng nổi bật trong thành tựu của đất nước'. Trong đó, cùng với 3 trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, Quốc hội liên tục triển khai hiệu quả các chủ trương lớn của Đảng về phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại; hoạt động đối ngoại của Quốc hội, trong đó phát huy vai trò, 'sức mạnh mềm' của ngoại giao nghị viện trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước. Trong tổng thể chính sách đối ngoại quốc gia, đối ngoại Quốc hội đã tích cực, trách nhiệm, toàn diện, chủ động thúc đẩy nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đại biểu Quốc hội Lý Thị Lan, Phó trưởng Đoàn đại biểu chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Giang, Ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội nhìn nhận, năm 2024, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục là điểm sáng, các hoạt động đối ngoại cấp cao diễn ra sôi động, cục diện đối ngoại không ngừng được mở rộng, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước. Đồng thời, việc triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công tác ngoại giao kinh tế gắn với phát huy các động lực tăng trưởng của nền kinh tế; triển khai các thỏa thuận hợp tác song phương, đa phương, cụ thể hóa các khuôn khổ đã được nâng cấp, góp phần thực hiện các mục tiêu phục hồi tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và phát triển bền vững của đất nước.
Thành công trên cả bình diện song phương và đa phương
Để có được kết quả của năm 2024, chúng ta phải nhìn lại năm 2023 - năm bản lề đánh dấu hoạt động đối ngoại Quốc hội sôi động và nhiều dấu ấn trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động. Ở góc độ song phương, Việt Nam tích cực triển khai ngoại giao nghị viện với nhiều quốc gia trên thế giới. Các chuyến thăm của lãnh đạo Quốc hội Việt Nam tới các quốc gia và các cuộc tiếp đón đoàn đại biểu quốc tế tại Việt Nam diễn ra thường xuyên, góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam với các đối tác.
Trong năm 2023, Quốc hội đón 10 đoàn cấp Chủ tịch Quốc hội/Nghị viện các nước thăm và làm việc tại Việt Nam, gồm: Hàn Quốc; Bờ Biển Ngà; Thụy Sỹ; Bỉ; Nhật Bản; Tonga; Malawi; Cuba; Duma Quốc gia Nga; Campuchia. Bên cạnh đó, năm 2023, Chủ tịch Quốc hội thăm chính thức Cuba đã góp phần thúc đẩy quan hệ hai nước, giúp Cuba tháo gỡ những khó khăn trong việc sản xuất lương thực cũng như cung cấp lương thực, thực phẩm cho người dân và triển khai những dự án hợp tác giữa hai nước; thăm Cộng hòa Argentina và Cộng hòa Đông Uruguay - đây là những đối tác toàn diện và đối tác truyền thống của Việt Nam ở khu vực Nam Mỹ, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác hiệu quả, thực chất giữa Việt Nam với khu vực này ngày càng phát triển; thăm và làm việc tại Lào; Hungary; Anh; Campuchia; Philippines; tham dự Đại hội đồng Liên Nghị viện các quốc gia Đông Nam Á lần thứ 43 (AIPA-43) tại Campuchia; thăm chính thức Cộng hòa Bulgaria; thăm chính thức Cộng hòa Nhân dân Bangladesh; gặp gỡ, hội kiến lãnh đạo đứng đầu các nước đối tác quan trọng của Việt Nam, như: Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình; Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Joe Biden; Phó Chủ tịch Quốc hội thăm và làm việc tại Bỉ, Bồ Đào Nha, Kazakhstan và Kyrgyzstan…
Ở góc độ đa phương, Việt Nam đã tích cực tham gia vào các tổ chức và diễn đàn nghị viện quốc tế và khu vực, đóng góp ý kiến vào các vấn đề toàn cầu và khu vực, đồng thời thúc đẩy hợp tác đa phương. Quốc hội Việt Nam đã tham gia 3 hội nghị nghị viện lớn quy mô toàn cầu và khu vực, như: Tham dự Đại hội đồng AIPA-42 do Hội đồng Lập pháp Brunei Darussalam tổ chức. Tại hội nghị, Việt Nam đóng góp 5 ý kiến, khẳng định vị thế của Quốc hội Việt Nam, như: củng cố vai trò trung tâm của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); phát huy vai trò giám sát của các nghị viện thành viên đối với triển khai thực hiện Kế hoạch tổng thể của ASEAN; đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của AIPA; thúc đẩy bình đẳng giới và sự tham gia của phụ nữ, thanh niên trong quá trình hoạch định triển khai chính sách; tăng cường sự tham gia của nghị sĩ trẻ AIPA, và đã nhận được sự ủng hộ và đánh giá cao của các nghị viện thành viên; tham dự Hội nghị các Chủ tịch Quốc hội thế giới lần thứ 5 (WCSP5) tại Cộng hòa Áo.
Việt Nam đã có 2 bài phát biểu quan trọng nêu rõ quan điểm của Việt Nam về các vấn đề toàn cầu. Nghị viện các nước đã thống nhất chung tay phòng, chống đại dịch, chia sẻ vaccine, lập chiến lược thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững; tham dự Hội nghị Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF) 29 do Quốc hội Hàn Quốc tổ chức theo hình thức trực tuyến. Các phát biểu về vấn đề chính trị, an ninh, kinh tế, thương mại tại hội nghị đã mang đến thông điệp và hình ảnh về đất nước Việt Nam đoàn kết, kiên cường trong dịch bệnh, khát vọng vươn lên; tiếp tục triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; phát huy vai trò của ngoại giao nghị viện, góp phần nâng cao vị thế và vai trò của Quốc hội Việt Nam trong ngoại giao nghị viện khu vực.
Đặc biệt, Ban Chấp hành APPF đã nhất trí đề cử Quốc hội Việt Nam tham gia Ban Chấp hành APPF trong nhiệm kỳ mới, bắt đầu từ APPF-30 đến hết Hội nghị APPF-33, cho thấy sự tín nhiệm cao của các nghị viện thành viên đối với Quốc hội Việt Nam. Bên cạnh đó, sự kiện “Quốc hội đăng cai Tổ chức Hội nghị Nghị sĩ trẻ toàn cầu lần thứ 9 là dấu ấn quan trọng về hoạt động đối ngoại đa phương năm 2023 của Quốc hội. Hoạt động này là cơ hội để Việt Nam tiếp tục thể hiện và quảng bá hình ảnh Việt Nam và Quốc hội Việt Nam đến với bạn bè quốc tế…
Chủ động hành động, đồng hành vì mục tiêu quốc gia
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Vũ Hải Hà, nếu mục tiêu chính trong hoạt động đối ngoại năm 2021 là ngoại giao vaccine thì trọng tâm của công tác đối ngoại năm 2022, năm 2023 là hỗ trợ công tác phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc giải quyết vướng mắc trong quan hệ kinh tế với các đối tác phải bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc, hài hòa với lợi ích hợp pháp, chính đáng của các đối tác, bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, đẩy mạnh ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, phát huy hiệu quả kênh ngoại giao nghị viện, đẩy nhanh quá trình các nước phê chuẩn các hiệp định thương mại và đầu tư, mở ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp tiếp cận, chiếm lĩnh thị trường quốc tế.
Một trong những dấu ấn đặc biệt ấn tượng và không thể không điểm lại đối với điểm sáng của đối ngoại Quốc hội Việt Nam, đó là thành công trong chiến dịch “ngoại giao vaccine”, có được các loại thuốc và vật tư y tế để hỗ trợ cho công tác phòng, chống dịch bệnh trong nước. Cụ thể, Đoàn đại biểu cấp cao Quốc hội Việt Nam tiếp nhận 200.000 liều vaccine AstraZeneca được Chính phủ Vương quốc Bỉ và Cộng hòa Slovakia trao tặng; cùng với đó là các thiết bị, vật tư y tế trị giá 1.028 tỷ đồng, cùng tiền mặt ủng hộ TP.HCM và Quỹ phòng, chống Covid-19.
Sau chuyến thăm chính thức Hàn Quốc và Ấn Độ, Đoàn đại biểu cấp cao của Quốc hội Việt Nam đã tiếp nhận 200.000 liều vaccine COVAXIN cho trẻ em dưới 18 tuổi do Tập đoàn Bharat Biotech (Ấn Độ) ủng hộ; chuyển giao toàn bộ công nghệ và 1 tấn nguyên liệu điều chế 4.750.000 viên thuốc MOVINAVIR 200mg điều trị Covid-19 do Công ty Optimus Pharma (Ấn Độ) phối hợp với Công ty Cổ phần Hóa - Dược phẩm Mekophar (Việt Nam).
Đặc biệt, đối ngoại Quốc hội hỗ trợ công tác phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kết quả thể hiện qua các chuyến thăm của lãnh đạo Quốc hội các nước đến Việt Nam và chuyến thăm của lãnh đạo Quốc hội Việt Nam đến các nước. Đó là, Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Kim Jin Pyo thăm chính thức Việt Nam ngày 12-1-2023. Tại chuyến thăm này, lãnh đạo hai bên nhất trí sớm đạt mục tiêu nâng kim ngạch thương mại song phương lên 150 tỷ USD vào năm 2030 theo hướng bền vững, cân bằng hơn trên cơ sở khai thác tốt các Hiệp định Thương mại song phương và đa phương hiện có; thúc đẩy hợp tác để Hàn Quốc trở thành Đối tác chiến lược thực sự của Việt Nam trong ngành công nghiệp bán dẫn; nhất trí trao đổi, đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực chuyển đổi số, bảo đảm an ninh năng lượng, chuyển đổi năng lượng một cách công bằng để hiện thực hóa cam kết của mỗi nước tại Hội nghị COP26.
Chuyến thăm của Chủ tịch Thượng viện Nhật Bản Otsuji Hidehisa tới Việt Nam ngày 4-9-2023, hai bên đã nhất trí chuẩn bị để sớm ký thỏa thuận hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam và Thượng viện Nhật Bản, làm cơ sở để cơ quan lập pháp hai nước tăng cường hơn nữa các hoạt động hợp tác, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm giữa các ủy ban chuyên môn, nhất là trong hoàn thiện thể chế, chính sách, xây dựng hành lang pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp hai nước mở rộng hợp tác, đầu tư tại mỗi nước.
Chuyến thăm của Chủ tịch Quốc hội Vương quốc Campuchia Samdech Khuon Sudary ngày 30-11-2023, hai bên nhất trí cho rằng, cần đẩy mạnh hơn nữa hợp tác trong các dự án kết nối giao thông hai nước; tăng tần suất các chuyến bay thẳng giữa các thành phố lớn phù hợp nhu cầu của hai bên; khuyến khích các địa phương kết nối cảng biển; hợp tác du lịch đường bộ gắn với khai thác thế mạnh đặc sắc về văn hóa, di sản, ẩm thực; thu hút du khách quốc tế quay trở lại; thực hiện Kế hoạch phát triển du lịch tại Khu vực Tam giác phát triển, phối hợp với Lào đẩy mạnh du lịch “Một hành trình ba điểm đến” qua Campuchia - Lào - Việt Nam…
Tích cực, toàn diện hoạt động ngoại giao nghị viện
Năm 2023 là điểm sáng. Năm 2024 tiếp tục là điểm sáng đầy ấn tượng. Hoạt động đối ngoại Quốc hội tiếp tục phát huy vai trò, lợi thế của ngoại giao nghị viện; làm sâu sắc hơn quan hệ song phương giữa Quốc hội Việt Nam với nghị viện các nước theo hướng thực chất, trách nhiệm, toàn diện, chủ động hội nhập quốc tế để góp phần nâng cao uy tín của Quốc hội và vị thế của Việt Nam. Dấu ấn đó phải kể đến sự kiện ngày 13-6-2024, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã tiếp Đại sứ, Đại biện các nước ASEAN và Timor - Leste tại Hà Nội.
Phát biểu tại cuộc gặp, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn khẳng định, Quốc hội Việt Nam sẽ phối hợp chặt chẽ cùng nghị viện các nước ASEAN tham gia và đóng góp hiệu quả vào việc hiện thực hóa các mục tiêu của Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2045. Ngày 17-6-2024, tiếp Đại sứ Liên minh châu Âu (EU) tại Việt Nam Julien Guerrier và Đại sứ, Đại biện các nước thành viên EU, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn khẳng định quan hệ giữa Quốc hội Việt Nam và Nghị viện châu Âu đang phát triển rất tốt đẹp.
Hai bên đã và sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ, hoàn thiện thể chế pháp luật nhằm thúc đẩy triển khai hiệu quả Hiệp định EVFTA với mục tiêu cao nhất là đem lại lợi ích thiết thực cho người dân và doanh nghiệp hai bên. Ngày 20-6-2024, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã hội kiến Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam. Chủ tịch Quốc hội khẳng định quan hệ hợp tác liên nghị viện là một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Liên bang Nga thời gian qua và sẽ không ngừng được củng cố, phát triển tốt đẹp trong thời gian tới.
Ngày 4-7-2024, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã tiếp đoàn đại biểu Hội Liên hiệp Phụ nữ và nữ doanh nhân Lào và Campuchia nhân dịp tham dự Diễn đàn kết nối, giao lưu nữ doanh nhân ba nước với chủ đề “Nữ doanh nhân và Kinh tế xanh”. Chủ tịch Quốc hội đề nghị thời gian tới, Hội Phụ nữ ba nước tiếp tục trao đổi về phương hướng và các biện pháp hợp tác nhằm làm tốt hơn nữa công tác vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới, kết nối nữ doanh nhân ba nước, tăng cường mối quan hệ hữu nghị, truyền thống giữa ba tổ chức Hội Phụ nữ, góp phần vào quan hệ đoàn kết, hợp tác toàn diện giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia.
Ngày 1-8-2024, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã hội kiến Tổng thống nước Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste José Ramos-Horta. Chủ tịch Quốc hội cho rằng, tiềm năng và dư địa hợp tác nghị viện giữa hai nước còn rất lớn, hiện tại chưa có cơ chế hợp tác, trao đổi đoàn trực tiếp, thường xuyên giữa các cơ quan của Quốc hội. Vì thế, hai bên có thể tiến hành chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác trong các lĩnh vực hai bên cùng quan tâm, như xây dựng pháp luật, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia.
Ngày 25-8-2024, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã chủ trì lễ đón chính thức Chủ tịch Thượng viện Australia Sue Lines dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Nghị viện Australia thăm chính thức Việt Nam. Tại cuộc gặp, hai bên đều khẳng định, cùng với đà phát triển tốt đẹp của quan hệ hai nước, hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam và Nghị viện Australia không ngừng được mở rộng và đi vào thực chất. Hai bên đang tích cực phối hợp triển khai Thỏa thuận hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam và Nghị viện Australia ký năm 2022; duy trì tham vấn, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn nghị viện đa phương.
Đặc biệt chuyến thăm cấp cao giữa hai nước, góp phần tạo động lực mới cho quan hệ giữa hai cơ quan lập pháp và giữa hai nước nói chung. Tiếp Tổng thống đắc cử Cộng hòa Indonesia Prabowo Subianto sang thăm, làm việc tại Việt Nam ngày 14-9-2024, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đánh giá cao hợp tác giữa cơ quan lập pháp hai nước thời gian qua, nhất là sau khi ký Thỏa thuận hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam và Hạ viện Indonesia tháng 8-2023. Hai bên thường xuyên trao đổi đoàn, chia sẻ kinh nghiệm trong công tác lập pháp, tạo hành lang pháp lý thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực có tính toàn cầu hiện nay, đặc biệt là kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, chuyển đổi năng lượng, công nghiệp bán dẫn, phát triển hệ sinh thái xe điện và pin xe điện…
Ngày 13-10-2024, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã có cuộc hội kiến với Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Cường. Về hợp tác nghị viện, Chủ tịch Quốc hội khẳng định, Quốc hội Việt Nam và Nhân đại toàn quốc Trung Quốc tiếp tục phát huy vai trò lập pháp và giám sát trong việc thúc đẩy quan hệ hai nước, đẩy mạnh trao đổi kinh nghiệm về hoàn thiện thể chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chủ trì cuộc hội đàm với Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Chính quyền Nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cuba Esteban Lazo Hernandez ngày 2-11-2024, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn mong muốn tiếp tục tăng cường hợp tác với Quốc hội Cuba với những nội dung, cơ chế hợp tác mới sâu rộng hơn, như: tiếp tục trao đổi Đoàn các cấp; tăng cường trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm về tổ chức hoạt động của Quốc hội; tiếp tục phát huy vai trò cơ quan lập pháp hai nước trong việc phối hợp giám sát việc thực hiện hiệu quả các văn kiện hợp tác đã ký kết giữa hai nước…
Khi tác phẩm này đến tay bạn đọc, cũng là thời điểm Chủ tịch Quốc hội Armenia Alen Simonyan đến Hà Nội, bắt đầu thăm chính thức Việt Nam từ ngày 17 đến 23-11-2024, theo lời mời của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn. Trong tổng thể quan hệ hai nước, quan hệ giữa hai Quốc hội tiếp tục được duy trì, góp phần thúc đẩy quan hệ song phương. Quốc hội Armenia đã thành lập Nhóm Nghị sĩ Hữu nghị Armenia - Việt Nam vào năm 2021. Hai bên phối hợp hoạt động và trao đổi tại các diễn đàn đa phương như Liên minh Nghị viện thế giới (IPU); Đại hội đồng Hội đồng Liên Nghị viện các quốc gia Đông Nam Á (AIPA); Liên minh Nghị viện Pháp ngữ (APF).
Vừa qua, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đã gặp Phó Chủ tịch Quốc hội Armenia Hakob Arshakyan bên lề Đại hội đồng AIPA-45. Chuyến thăm chính thức Việt Nam của Chủ tịch Quốc hội Armenia Alen Simonyan là chuyến thăm đầu tiên của người đứng đầu cơ quan lập pháp Armenia sau hơn 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước; khẳng định Armenia coi trọng và mong muốn tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt với Việt Nam. Chuyến thăm cũng nhằm tăng cường quan hệ qua kênh Quốc hội/Nghị viện, thiết lập và giao lưu nghị sĩ hai nước nhằm trao đổi kinh nghiệm lập pháp; góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác thực chất trên các lĩnh vực.
Dấu ấn Quốc hội và nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế
Nhận lời mời của Chủ tịch Duma Quốc gia, Quốc hội Liên bang, Liên bang Nga Vyacheslav Victorovich Volodin và Chủ tịch Hội đồng Liên bang, Quốc hội Liên bang, Liên bang Nga Valentina Ivanovna Matvienko, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Quốc hội Việt Nam thăm chính thức Liên bang Nga và đồng chủ trì Phiên họp lần thứ ba Ủy ban Hợp tác Liên Nghị viện Việt Nam - Liên bang Nga từ ngày 8 đến 10-9-2024.
Tại hội đàm, về hợp tác liên nghị viện, hai Chủ tịch nhất trí cho rằng, trong các kênh hợp tác song phương, hợp tác liên nghị viện là một trụ cột rất quan trọng, đang không ngừng được củng cố, phát triển tốt đẹp; hai bên thường xuyên tham vấn, phối hợp, tích cực ủng hộ nhau tại các diễn đàn nghị viện đa phương khu vực và quốc tế. Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh, Việt Nam coi trọng vai trò của Duma Quốc gia, đánh giá cao vai trò cá nhân của Chủ tịch Duma Quốc gia Vyacheslav Victorovich Volodin, trên cương vị Chủ tịch Duma Quốc gia đã góp phần quan trọng thúc đẩy quan hệ song phương, trong đó có hợp tác giữa Quốc hội hai nước.
Hai Chủ tịch nhất trí cho rằng, hiện nay, cơ chế hợp tác của Ủy ban hợp tác Liên Nghị viện giữa Quốc hội Việt Nam và Duma Quốc gia Nga là cơ chế hợp tác đầu tiên và cao nhất của Quốc hội Việt Nam với một cơ quan lập pháp của một quốc gia khác. Hai bên đã tổ chức thành công 2 phiên họp. Trong khuôn khổ chuyến thăm lần này, hai bên sẽ cùng chủ trì Phiên họp lần thứ ba, nhằm tiếp tục rà soát, thúc đẩy hợp tác giữa hai nước phát triển mạnh mẽ hơn. Cùng với cơ chế hợp tác Liên Nghị viện hiện có giữa Quốc hội Việt Nam và Duma Quốc gia Nga, Chủ tịch Duma Quốc gia
Vyacheslav Victorovich Volodin đề nghị hai bên cần tiếp tục nghiên cứu, mở rộng và thiết lập các cơ chế hợp tác mới, góp phần củng cố và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Liên bang Nga - Việt Nam. Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị hai bên tiếp tục tăng cường trao đổi đoàn cấp cao của Lãnh đạo Quốc hội, các hoạt động hợp tác giữa các Cơ quan và Ủy ban của Quốc hội, Nhóm Nghị sĩ hữu nghị, Nhóm Nghị sĩ trẻ, Nhóm nữ nghị sĩ và các Đại biểu Quốc hội của hai nước; tăng cường trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm lập pháp, cập nhật thông tin về hoạt động nghị viện của mỗi nước; tăng cường phối hợp giám sát và đôn đốc thực hiện các thỏa thuận hợp tác mà Chính phủ hai nước đã ký kết; xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý thuận lợi, ủng hộ Chính phủ, địa phương, doanh nghiệp và nhân dân hai nước.
Quay ngược thời gian trở về quá khứ, Quốc hội Việt Nam hai lần đảm nhiệm vị trí Chủ tịch nhóm địa chính trị châu Á - Thái Bình Dương và nhóm ASEAN+3 trong khuôn khổ Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới - IPU (năm 2006, 2010). Tại Kỳ họp Đại hội đồng IPU tháng 10-2007, lần đầu tiên đại diện của Quốc hội Việt Nam được Đại hội đồng tín nhiệm bầu vào Ban chấp hành IPU. Đặc biệt, việc đại diện của Quốc hội Việt Nam được bầu làm Phó Chủ tịch IPU năm 2009 đã đóng góp trực tiếp và thiết thực vào hoạt động của IPU. Thông qua diễn đàn IPU, quan hệ song phương giữa Quốc hội Việt Nam với Nghị viện các nước được thiết lập và tăng cường.
Đại hội đồng IPU-128 đã thông qua Nghị quyết về việc Việt Nam đăng cai tổ chức Đại hội đồng IPU-132 thể hiện sự tín nhiệm của bạn bè quốc tế đối với Việt Nam. Thực tế, sự tham gia tích cực của Việt Nam trong Liên minh Nghị viện thế giới trong nhiều năm qua, sự phát triển và vị thế ngày càng tăng của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế là những cơ sở quan trọng để các đại biểu IPU tin tưởng vào khả năng tổ chức của Việt Nam. Việt Nam và dấu ấn IPU-132: Đại hội đồng IPU-132 đã nhất trí thông qua “Tuyên bố Hà Nội” - văn bản quan trọng phản ánh tầm nhìn, cam kết và hành động của các Nghị viện thành viên IPU vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích của người dân, quốc gia cũng như thúc đẩy hợp tác toàn cầu.
Tuyên bố khẳng định lấy người dân làm trung tâm, thực hiện quyền con người, tôn trọng luật pháp quốc tế; thúc đẩy nghị viện các quốc gia nỗ lực hành động, thực hiện cam kết, ban hành luật pháp, phân bổ ngân sách, phù hợp đặc điểm của mỗi nước; đảm bảo các chính phủ có trách nhiệm với những mục tiêu đã cam kết. Có thể nói, việc thông qua “Tuyên bố Hà Nội” đã ghi dấu ấn Quốc hội và nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế.
Việt Nam đã có “cơ hội vàng” để giới thiệu với bạn bè quốc tế về một đất nước đổi mới, phát triển, con người Việt Nam thân thiện, mến khách và nền văn hóa Việt Nam đa dạng, phong phú; qua đó cũng khẳng định sự đóng góp thiết thực, hiệu quả của Quốc hội Việt Nam đối với IPU, không ngừng nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Trong cuộc trao đổi với phóng viên An ninh Thủ đô, ông Hoàng Bình Quân, đại biểu Quốc hội khóa IX, XI, XIII, XIV, nguyên Trưởng ban Đối ngoại Trung ương chia sẻ, tại Đại hội đồng IPU-132 do Việt Nam đăng cai tổ chức, một nghị sĩ tham dự đã nói với tôi rằng, phải dùng hai từ “hoàn hảo” để nói về Việt Nam!
Và gần đây nhất, IPU-149 diễn ra tại Geneva, Thụy Sĩ từ ngày 13 đến 17-10-2024, Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Mạnh Tiến làm Trưởng đoàn đã đề nghị nghị viện các nước và Liên minh Nghị viện thế giới cùng phối hợp, đề cao vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong việc thúc đẩy hòa bình và phát triển bền vững; khuyến khích các chính sách nhằm đảm bảo mọi thành phần trong xã hội, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em và các nhóm yếu thế, đều được hưởng lợi từ tiến bộ khoa học và công nghệ; tăng cường hợp tác quốc tế trong việc chuyển giao công nghệ, chia sẻ tri thức và kinh nghiệm, với sự ưu tiên cho các quốc gia đang phát triển; các tiến bộ khoa học, công nghệ phải được ứng dụng đi đôi với việc tôn trọng các giá trị văn hóa, quyền con người và sự đa dạng sinh học; đẩy mạnh hợp tác công - tư trong việc triển khai các dự án khoa học công nghệ, đảm bảo tính bao trùm và bền vững, nâng cao năng lực ứng phó với các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch bệnh, nhằm bảo đảm mọi người dân, đặc biệt là các nhóm yếu thế, đều được hưởng lợi từ sự phát triển này.
Ngoài phiên họp toàn thể, các thành viên Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đã tham dự và đóng góp nội dung tại các Ủy ban Thường trực về Hòa bình và An ninh quốc tế; Phát triển bền vững; Dân chủ nhân quyền; Các vấn đề Liên hợp quốc; Diễn đàn nữ nghị sĩ; Hiệp hội các Tổng Thư ký Nghị viện (ASGP)…
Trước đó, Quốc hội Việt Nam chủ trì đăng cai Đại hội đồng Liên Nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á lần thứ 41 (AIPA-41) theo hình thức trực tuyến. Sự kiện này đã thể hiện trách nhiệm, sự chủ động của Việt Nam đối với AIPA; khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và thế giới… Đại hội đồng Liên Nghị viện các quốc gia Đông Nam Á lần thứ 45 (AIPA-45) diễn ra tại Thủ đô Viêng Chăn, Lào từ ngày 17 đến 19-10-2024. Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và Đoàn đại biểu cấp cao Quốc hội nước ta tham dự AIPA-45 có ý nghĩa quan trọng, một mặt thể hiện sự tham gia chủ động, tích cực, đóng góp trách nhiệm của Quốc hội Việt Nam cùng nghị viện các nước thành viên củng cố vai trò trung tâm, sự đoàn kết và thống nhất trong ASEAN, đẩy mạnh sự hợp tác nội khối, mở rộng quan hệ nhiều mặt với nghị viện các nước trong và ngoài khu vực; phát huy trách nhiệm, vai trò của AIPA đối với hòa bình, ổn định và phát triển, đồng thời đưa ra nhiều sáng kiến có giá trị nhằm chia sẻ và hỗ trợ Chính phủ các nước ASEAN giải quyết những vấn đề ưu tiên của khu vực.
Đánh giá về chuyến thăm chính thức Lào và tham dự AIPA-45 của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Đại sứ Việt Nam tại Lào Nguyễn Minh Tâm nhìn nhận, đây không chỉ là cơ hội tốt để củng cố thêm lòng tin chiến lược, mở rộng hợp tác nghị viện giữa hai nước, mà còn thể hiện việc tiếp tục triển khai chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, nâng tầm đối ngoại đa phương. Đồng thời, chuyến thăm khẳng định vai trò của Quốc hội Việt Nam, chủ động, tích cực đóng góp thực chất vào nội dung của AIPA; ủng hộ Lào trên cương vị Chủ tịch AIPA; cùng các Nghị viện thành viên AIPA củng cố đoàn kết và vai trò trung tâm của ASEAN, đẩy mạnh quan hệ giữa AIPA và các đối tác. Tăng cường quan hệ giữa Quốc hội Việt Nam với Quốc hội thành viên và Quan sát viên của AIPA.
Trao đổi, chia sẻ thông tin với các nghị sĩ các nước về những mối quan tâm chung của khu vực vì hòa bình, hợp tác và phát triển, về các hoạt động của nghị viện. Qua đó cũng chia sẻ về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, các hoạt động của Quốc hội trong việc góp phần quan trọng vào phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tại chuyến thăm, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã hội kiến Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thongloun Sisoulith. Quốc hội hai nước đang tích cực phối hợp nghiên cứu biên soạn và xuất bản cuốn sách “50 quan hệ giữa Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào - Hợp tác toàn diện phát triển” để tổng kết quá trình phát triển, thành tựu đạt được và những bài học kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác giữa Quốc hội hai nước trong giai đoạn mới. Đồng thời, để tuyên truyền sâu rộng, nâng cao nhận thức của nhân dân hai nước Việt Nam - Lào về quan hệ gắn bó giữa hai Quốc hội Việt Nam - Lào; qua đó góp phần giúp nhân dân hai nước nhận thức sâu sắc hơn nữa về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào.
Hòa nhịp trong công tác đối ngoại và chiến lược ngoại giao quốc gia từ sau Đại hội XIII đến nay, đối ngoại Quốc hội, trong đó có ngoại giao nghị viện đã đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, trở thành một điểm sáng đầy ấn tượng trong toàn bộ những kết quả, thành tựu chung của đất nước; góp phần làm cho nhân dân thế giới và bạn bè quốc tế ngày càng hiểu biết rõ hơn về đất nước, con người và nền văn hóa Việt Nam, nâng cao vai trò, vị thế, uy tín của Việt Nam nói chung và Quốc hội Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế. Đồng thời, góp phần thúc đẩy hơn nữa quan hệ đoàn kết đặc biệt, hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện.
* * *
Từ điểm sáng năm 2023, với các hoạt động của Quốc hội từ đầu năm 2024 đến nay, có thể khẳng định, hoạt động đối ngoại của Quốc hội diễn ra sôi động và thực chất; tích cực triển khai Chương trình hành động của Đảng đoàn Quốc hội thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; tiếp tục phát huy vai trò, lợi thế của ngoại giao nghị viện với đặc thù vừa mang tính Nhà nước, vừa mang tính nhân dân gắn với hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân.
Điều này nhằm thiết thực góp phần tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động sức mạnh bên ngoài để xây dựng, phát triển đất nước; đồng thời làm sâu sắc hơn quan hệ song phương giữa Quốc hội Việt Nam với Quốc hội/Nghị viện các nước đi vào chiều sâu, theo hướng thực chất, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, mở rộng trên cả bình diện song phương và đa phương. Trong đó ưu tiên các đối tác có quan hệ đặc biệt, các nước láng giềng, khu vực, đối tác chiến lược, đối tác truyền thống; tăng cường hiểu biết và tranh thủ sự ủng hộ của nghị viện, nghị sĩ các nước dành cho Việt Nam nhằm góp phần nâng cao uy tín của Quốc hội và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Một chương mới trong lịch sử đất nước đã bắt đầu, lời hiệu triệu của người đứng đầu Đảng ta đã hiện hữu để đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.
Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Và một trong những yêu cầu của người đứng đầu Đảng ta, đó là “tiếp tục mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại của Quốc hội, góp phần nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”. Vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước đã được lĩnh xướng; đây cũng là tầm nhìn về việc phát huy vai trò của đối ngoại Quốc hội, vận dụng bài học của Đảng ta về việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong các điều kiện cụ thể. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội tiếp tục phải có những bước chuyển biến mới, mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn ở tầm cao mới, chuyên nghiệp hơn, hiện đại, hiệu quả và thiết thực; góp phần vào thành công chung của công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước; khẳng định vị thế của ngoại giao nghị viện trong nền ngoại giao toàn diện, hiện đại của đất nước, cũng như ngoại giao nghị viện khu vực và thế giới.
Đại sứ Ngô Quang Xuân - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, nguyên Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc, nguyên Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc, nguyên Phó Chủ tịch Liên minh Nghị viện thế giới: Đối ngoại Quốc hội góp phần đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc
Trong những năm qua, công tác đối ngoại của Quốc hội đã đóng góp tích cực vào thành tựu chung của đất nước. Quốc hội đã thể chế hóa chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, quyết định các vấn đề quan trọng trong lĩnh vực ngoại giao; giám sát việc thực hiện các chính sách, pháp luật về đối ngoại cũng như cam kết quốc tế của Việt Nam; triển khai các hoạt động ngoại giao nghị viện song phương và đa phương. Chia sẻ, phân tích, đánh giá về công tác này, Đại sứ Ngô Quang Xuân - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, nguyên Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc, nguyên Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc, nguyên Phó Chủ tịch Liên minh Nghị viện thế giới đã có cuộc trao đổi với Báo An ninh Thủ đô dưới đây.
Niềm tin của sự phát triển và thịnh vượng
- Phóng viên: Thưa Đại sứ, tại sao chúng ta lại chọn thời điểm này để bắt đầu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc?
- Đại sứ Ngô Quang Xuân: Kỷ nguyên có nghĩa là một giai đoạn. Ví dụ, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng trên sông Bạch Đằng, cha ông ta mở ra một kỷ nguyên mới xóa bỏ 1.000 năm Bắc thuộc. Khi Bác Hồ đọc Bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình đã mở ra một kỷ nguyên hoàn toàn mới, một nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa mới ra đời. Từ năm 1945 đến 1975, với chiến thắng Điện Biên Phủ và chiến thắng chiến dịch Hồ Chí Minh, đã mở ra kỷ nguyên mới của nước Việt Nam - kỷ nguyên của độc lập dân tộc và bắt đầu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1975 đến nay là kỷ nguyên của một đất nước Việt Nam thống nhất và đổi mới. Bây giờ đến một giai đoạn mà chúng ta đang gọi là dân tộc vươn mình.
Tổng Bí thư Tô Lâm cho rằng, Đại hội XIV là dấu mốc quan trọng. Đó là chúng ta kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng, 85 năm lập quốc, 50 năm thống nhất đất nước và 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Ở đây, ta có thể thấy rõ sự logic về phát triển, từ tổng kết các dấu mốc sẽ đề ra những chủ trương mới, chiến lược mới. Khi nói đây là kỷ nguyên mới, hành trình mới của dân tộc, rõ ràng Tổng Bí thư Tô Lâm muốn đưa ra định hướng, chủ trương, chiến lược cho giai đoạn phát triển mới của đất nước. Khi mà toàn dân đã nhận thức một cách thấu đáo và nhất trí đồng lòng thì chúng ta hoàn toàn có niềm tin là đã đến lúc dân tộc Việt Nam chuyển mình sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của phát triển, thịnh vượng.
- Những dấu mốc mà Đại sứ vừa nêu rất đúng với hai từ mà Tổng Bí thư Tô Lâm đã đặt ra, đó là thời điểm “hội tụ” đủ các yếu tố thế và lực để đất nước “vươn mình” trong kỷ nguyên mới. Đại sứ đánh giá như thế nào về giá trị của sự “hội tụ” này?
- Trước tiên, nói về uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế thì thấy rằng, chính sách đối ngoại và công tác ngoại giao của chúng ta đang ở một tầm cao. Tại sao lại khẳng định như vậy? Bởi về mặt quan hệ tổng thể với thế giới thì chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia (Liên hợp quốc có 193 thành viên, có 1 quốc gia chưa phải là thành viên, nhưng cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam là Cộng hòa Sahrawi của châu Phi - PV). Chúng ta cũng đã có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 200 quốc gia, vùng lãnh thổ; là thành viên của trên 70 tổ chức quốc tế (trong đó có Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới WTO và rất nhiều tổ chức quốc tế khác) với hơn 70 cơ chế đa phương. Chúng ta đã ký kết Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) với 17 đối tác.
Chúng ta cũng là một trong số ít quốc gia có thiết lập quan hệ đặc biệt với hơn 30 Đối tác Chiến lược và Đối tác Chiến lược Toàn diện. Trong đó có những quan hệ Đối tác Chiến lược đặc biệt và nhất là chúng ta có quan hệ với cả 5 nước thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Đây là một con số rất đồ sộ và qua những con số này có thể thấy vị thế của Việt Nam đang ở một tầm cao mới. Tầm cao mà Tổng Thư ký Liên hợp quốc sau khi tiếp xúc với các lãnh đạo cấp cao của ta đã phải đánh giá: “Việt Nam là một thành viên không thể thiếu của Liên hợp quốc”.
Làm Đại sứ Việt Nam ở Liên hợp quốc, tôi đã rất xúc động khi nghe những câu nói đó! Chúng ta thấy rõ tầm vóc Việt Nam có được như ngày hôm nay trước tiên là nhờ sự đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, nhờ bao nhiêu hy sinh xương máu của đồng bào, bao nhiêu công sức của thế hệ đi trước. Các giai đoạn mà Việt Nam trải qua đã chứng minh rằng, đây là một dân tộc có sức sống mãnh liệt với ý chí, bản lĩnh, trí tuệ và đặc biệt là có một chính sách đối ngoại hòa hiếu, công tâm, rộng mở. Chúng ta đang hội nhập rất sâu rộng. Chúng ta cũng đã khẳng định Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả mọi quốc gia và là một thành viên trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Về quan hệ ngoại giao cả đa phương lẫn song phương ở tất cả các diễn đàn thì Việt Nam đều nhận được đánh giá rất tốt từ các nước khác. Trong những ngày này, Chủ tịch nước Lương Cường đang dự những hoạt động của APEC tại Peru, Thủ tướng Phạm Minh Chính đang tham gia Hội nghị G20 tại Brazil. Có rất nhiều buổi tiếp xúc, rất nhiều hoạt động đối ngoại ở hai diễn đàn lớn của hành tinh và khu vực này.
Nói như thế để thấy rõ là Việt Nam đang cùng thế giới xây dựng những nội dung cho quan hệ quốc tế trong giai đoạn mới. Hiện tình hình thế giới đang rất phức tạp. Xung đột ở nhiều nơi đang rất căng thẳng và có nguy cơ bùng nổ, lôi kéo nhiều trung tâm chính trị vào cuộc. Giữa những xung đột như thế thì tiếng nói hòa bình, tiếng nói hữu nghị cùng những đề xuất, sáng kiến của Việt Nam và các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới đang cố gắng hóa giải, cùng bắt tay xây dựng nền hòa bình. Chỉ có hòa bình thì mới ổn định, chỉ có ổn định thì mới phát triển. Đó là các ưu tiên của đất nước ta và dân tộc ta.
- Đại sứ vừa nêu ra những thành tựu, những yếu tố “hội tụ” của công tác ngoại giao để đưa đất nước vươn mình. Như vậy có phải trong mỗi giai đoạn thì công tác ngoại giao của chúng ta đều có sứ mệnh riêng?
- Đúng vậy! Ngoại giao là một mặt trận và chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện nay dựa trên 3 trụ cột: Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Mặt trận ngoại giao có một tầm quan trọng rất lớn. Bác Hồ cũng đã nói: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Chiêng to thì tiếng sẽ to”. Như thế nghĩa là thực lực có mạnh thì ngoại giao mới vươn tầm lên được. Ví dụ như trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, thực lực của chúng ta là gì? Là chúng ta xây dựng chiến tranh nhân dân và chúng ta đã có chiến thắng Điện Biên Phủ - một thành tựu mà cả thế giới phải khâm phục.
Ngoại giao của chúng ta đã dùng thực lực này tiến hành đàm phán thành công Hiệp định Geneva, mang lại hòa bình cho Việt Nam và Đông Dương. Mặc dù lúc bấy giờ đất nước tạm thời bị chia cắt, nhưng rõ ràng đấy là một điểm mà ngoại giao đã đạt được. Ở cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, những hy sinh xương máu của quân và dân ta đã làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975. Trước đó chúng ta thấy ngoại giao Việt Nam đã làm rất tốt, rất ấn tượng là đàm phán từ năm 1968 đến 1973 để có Hiệp định Paris.
Hiệp định chính là kết quả của chiến lược, phương châm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra: Mỹ buộc phải rút khỏi Việt Nam. Để rồi từ đó chúng ta chiến thắng và thống nhất đất nước. Nhắc lại lịch sử để thấy vai trò của ngoại giao là làm cho thế giới hiểu được thắng lợi của quân và dân ta như thế nào. Ngoại giao đã đóng vai trò xây dựng vị thế vững chắc của đất nước, con người Việt Nam trên trường quốc tế; là cánh tay nối dài, mở ra những chân trời mới để đất nước có quan hệ, hội nhập sâu rộng với cộng đồng quốc tế.
Những nước trước đây thù địch với Việt Nam thì bây giờ đã trở thành bạn, thành đối tác. Dù các đảng phái nào của họ lên cầm quyền thì vẫn giữ quan hệ với Việt Nam và đánh giá tốt Việt Nam. Điều đó chứng tỏ hình ảnh, vị thế của chúng ta trong mắt cộng đồng thế giới rất được đề cao và tôn trọng. Ngược lại, chúng ta cũng luôn luôn mở rộng quan hệ với tư tưởng hòa hiếu, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển. Tôi nghĩ, vai trò của ngoại giao ở những giai đoạn như thế đều thể hiện được vị trí và có một sứ mệnh riêng.
Chúng ta phải thay đổi!
- Theo Đại sứ, trong kỷ nguyên mới này, công tác đối ngoại cần làm gì để đạt được sứ mệnh mà chúng ta mong muốn ngoài những thành tựu đã có?
- Chúng ta đã hội nhập sâu rộng, quan hệ với các đối tác ngày càng sâu sắc, nhưng với góc độ một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, tôi thấy vẫn chưa đủ. Việt Nam đang ở một tầm cao, nhưng kỷ nguyên mới sẽ đòi hỏi phải phát huy hơn nữa và đó là việc không hề đơn giản. Tôi lấy ví dụ, chúng ta đã ký kết đến 17 Hiệp định Thương mại Tự do, nhưng tận dụng thị trường của các hiệp định ấy như thế nào? Không phải quá bi quan, nhưng tôi cho là thấp, chưa đạt được như chúng ta mong muốn.
Tôi từng tham gia đàm phán gần 11 năm để Việt Nam vào WTO và sau đó chúng ta trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này. Nghĩa là đã có 149 thị trường mở ra và chúng ta phải cam kết với họ là hạ 10.600 dòng thuế, mở cửa các dịch vụ, hàng hóa... Nhưng bây giờ thị trường bán lẻ của ta bị nước ngoài lấn át, thứ mà chúng ta hay gọi là “thua trên sân nhà”. Hãy tự hỏi điều đó đang phản ánh cái gì? Nó phản ánh nội lực của chúng ta chưa đủ mạnh, cộng đồng doanh nghiệp của chúng ta chưa đạt yêu cầu. Và ngược lại, chúng ta cũng chưa thâm nhập được bao nhiêu trong số 149 thị trường mà chúng ta có quyền thâm nhập. Họ cũng phải hạ thuế cho ta, họ cũng phải mở cửa cho ta, nhưng hàng hóa của ta sang các nước thì chưa thể đáp ứng được. Chúng ta chủ yếu vẫn là xuất những nguyên liệu thô. Ngoài ra trong GDP thì tỷ lệ đóng góp của khối FDI là hơn 60%, con số đó khiến chúng ta chưa thể hài lòng.
Nói những thứ đó để biết nhiệm vụ của ngoại giao trong kỷ nguyên mới là cần phải làm gì. Bây giờ ta đã đề ra chủ trương ngoại giao kinh tế, tức là ngoài quan hệ chính trị thì trọng tâm rất lớn của Việt Nam là lĩnh vực kinh tế. Phải làm thế nào để đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại lên? Làm thế nào để cùng doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh, xây dựng thương hiệu của mình? Mà chỉ có cạnh tranh thương hiệu thì mới thâm nhập được vào thị trường quốc tế.
Công bằng mà nói, các đại sứ, cơ quan đại diện của ta, kể cả cơ quan đại diện ngoại giao cũng như các thương vụ của ngoại thương, công thương đang tích cực nghiên cứu các thị trường, tìm lối đi cho cộng đồng doanh nghiệp. Nhưng để kết hợp được là cả một vấn đề. Chúng ta đang quyết liệt cải cách thể chế, chính sách, cán bộ, nhân lực chất lượng cao... Chúng ta đang bước vào cuộc cách mạng số, chuyển đổi số, lấy đổi mới sáng tạo làm đòn bẩy để tiến lên thì ngoại giao, đối ngoại của Việt Nam phải đáp ứng được những nhiệm vụ này.
Chúng ta nhìn thấy được nghĩa là đã biết phải làm gì. Nếu làm được thì chúng ta sẽ thực sự bước vào một kỷ nguyên mới, tận dụng hết những nguồn lực nội tại mà chúng ta vẫn nói là sức mạnh dân tộc, kết hợp sức mạnh của thời đại - những nguồn lực và cơ hội mà trong quan hệ đối ngoại đã mở ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở đường, bảo vệ được môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước phát triển. Bây giờ chúng ta từ thành quả ấy phải biết vươn tầm lên mà khai thác tiềm năng, khai thác cụ thể vào từng thị trường, đi vào từng vùng kinh tế, sử dụng quyền của mình trong các Hiệp định Thương mại Tự do để thiết lập và triển khai các “luật chơi” có lợi cho mình.
Trong các Hiệp định Thương mại Tự do, chúng ta vẫn nói là quan hệ “win - win”, nhưng phải biết khai thác thật sự. Điều này phải ngấm vào đường gân, thớ thịt, phải đi vào tư duy hàng ngày và trở thành quyết tâm hành động. Chúng ta phải thay đổi! Kỷ nguyên mới đặt ra những nhiệm vụ mới. Chúng ta đã đồng lòng, đã có sức mạnh, nhưng nhiệm vụ của từng “mặt trận”, từng “phân đội” trong “cả đoàn quân” phải có sự phối hợp hết sức nhịp nhàng thì mới giành chiến thắng được. Chúng ta hay nói “lợi ích nhóm”, “lợi ích ngành”, “lợi ích bộ” vẫn còn tồn tại. Những thứ này là sự kìm hãm kinh khủng, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Điểm nghẽn là ở chính chúng ta”. Và tôi thấy đúng thế thật! Các nước họ đang tận dụng chúng ta ở đúng điểm này.
Chúng ta là một thị trường hơn 100 triệu dân. Tổng Thư ký Liên hợp quốc nói: “Việt Nam thành viên không thể thiếu của Liên hợp quốc” vì thấy đóng góp của Việt Nam rất tốt. Do đó, tôi cho rằng vẫn còn rất nhiều dư địa để đưa Việt Nam tiến lên. Vị thế và uy tín của Việt Nam phải được tận dụng để những cơ hội đang có đáp ứng vào nhu cầu của ta, để ta “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Trong quan hệ kinh tế - thương mại phải nhìn thấy điều đó ngay. Chúng ta phải tạo ra những giá trị thực sự, phải phá vỡ những điểm nghẽn, phá vỡ những thứ không chịu phối hợp này.
- Đại sứ vừa nhắc đến 3 trụ cột của đối ngoại Việt Nam, vậy Đại sứ nhìn nhận thế nào về đối ngoại Quốc hội?
- Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của một quốc gia, đồng thời là đại diện cho tiếng nói của nhân dân. Đối ngoại Quốc hội nằm trong ngoại giao Nhà nước, nhưng có đặc thù riêng vì vừa mang tính đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, nhưng cũng mang tính chất đối ngoại nhân dân. Trong các khóa X, XI, XII cho đến nay thì Quốc hội ta đã phát huy công tác đối ngoại tốt hơn rất nhiều và ngày càng tốt hơn. Bây giờ Việt Nam là bạn, là đối tác, là thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế thì vai trò của Quốc hội cũng rất tiên phong trong việc này.
Chúng ta thấy Quốc hội, nghị viện các nước đều là cơ quan lập pháp, do đó tác động mạnh lên cơ quan hành pháp, tức là tác động lên chính quyền. Khi đối ngoại Quốc hội tốt thì rõ ràng Quốc hội, nghị viện, nghị sĩ của nước bạn sẽ hiểu được mong muốn và lợi ích của quan hệ với Quốc hội Việt Nam. Họ thấy đất nước của họ, chính quyền của họ phải làm được gì thì mới tác động được vào chúng ta, từ ý chí cho đến chính sách. Cho nên tác động trong ngoại giao nghị viện có ý nghĩa rất đặc biệt, đặc thù.
Hai năm trước, Việt Nam tổ chức Diễn đàn Nghị sĩ trẻ rất thành công. Lúc bấy giờ tôi cũng tham gia và đánh giá đây là một dấu ấn trong hoạt động của Quốc hội. Tại sao như vậy? Vì ta thấy được vai trò của các nghị sĩ trẻ, họ là những nhà lãnh đạo tương lai, những người nối tiếp để làm cho quan hệ giữa đất nước họ với Việt Nam ngày càng tốt lên. Họ sang Việt Nam và thấy vai trò của Quốc hội Việt Nam, thấy các đại biểu Quốc hội trẻ của Việt Nam đóng góp vào hội nghị như thế nào, và họ đã đánh giá rất cao.
Chúng ta cũng thấy Hội nghị lần thứ 132 của Liên minh Nghị viện thế giới (IPU-132) diễn ra tại Hà Nội có một ý nghĩa đặc biệt bởi đã ra được “Tuyên bố Hà Nội”. Tuyên bố đó đưa ra nội dung của 17 mục tiêu phát triển bền vững, sau đó đưa lên Hội nghị Thượng đỉnh tại Liên hợp quốc và Liên hợp quốc đã thông qua. Bây giờ nói đến 17 mục tiêu thiên niên kỷ thì người ta đều nói ngay đến “Tuyên bố Hà Nội”, nghĩ ngay đến vai trò chủ trì của Quốc hội Việt Nam. Cho đến nay chúng ta tham gia rất nhiều cơ chế của các liên nghị viện và rõ ràng vai trò của ngoại giao nghị viện càng ngày càng rõ rệt, đóng góp rất nhiều trong tổng thể ngoại giao Việt Nam, nó đánh dấu một sự trưởng thành.
Ngoài những hội nghị lớn thì ta còn có những nhóm nghị sĩ hữu nghị của Việt Nam với các nước, các nhóm. Đây là sự thúc đẩy ngoại giao Nhà nước, tác động lên những chính sách của các nước trong quan hệ với Việt Nam. Chúng ta cũng chia sẻ kinh nghiệm, đóng góp, xây dựng, tham gia vào quá trình định hình “luật chơi” với thế giới. Trong lập pháp, điều này rất quan trọng. Nhìn chung đây là một cơ chế hiệu quả trong quan hệ ngoại giao nghị viện và chúng ta phát huy được rất tốt. Ví dụ như Hiệp định EVFTA giữa Việt Nam và EU, chúng ta thấy vai trò vận động của Nghị viện châu Âu (EP) rất có giá trị tác động đến EU và tác động đến từng Quốc hội của 27 thành viên EU với Việt Nam.
- Trong quan hệ quốc tế, vai trò của nghị viện không chỉ riêng Việt Nam mà các nước khác cũng càng ngày càng được đề cao. Trong kỷ nguyên vươn mình này, chúng ta cần phải làm gì để ngoại giao nghị viện thực sự trở nên thiết thực như tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kỳ vọng, thưa Đại sứ?
- Trong cơ chế đối ngoại thì Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đóng vai trò chủ chốt với các hoạt động bên cạnh hoạt động của lãnh đạo cấp cao, các chuyến thăm qua lại giữa các nghị viện về đàm phán song phương. Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội là cơ quan tham mưu cho lãnh đạo Quốc hội, lãnh đạo Nhà nước xây dựng các chương trình hoạt động, đồng thời là cơ quan phối hợp chặt chẽ, mang tính chất định hướng, định hình cho các đơn vị của Quốc hội hoạt động. Ngoài ra, các đại biểu Quốc hội cũng phải làm tốt công tác ngoại giao. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh, trước hết từng đại biểu Quốc hội tự thấy mình có sứ mệnh này và phải đáp ứng, hoàn thành sứ mệnh.
Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói, phải nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội. Đối với các nước khác, để làm nghị sĩ họ phải đăng ký cạnh tranh với nhau. Một ghế nghị sĩ có rất nhiều ứng cử viên và ai đạt yêu cầu thì người dân mới bỏ phiếu. Họ làm nghị sĩ từ khi còn trẻ cho đến lúc 80 - 90 tuổi. Phải nói là nghị sĩ có thâm niên, có kinh nghiệm rất quan trọng bởi công tác làm luật đòi hỏi phải am hiểu rất sâu. Có những người gắn bó cả đời, sống chết với từng bộ luật nên họ rất giỏi. Và họ còn khỏe mạnh, minh mẫn thì tại sao không cho họ làm.
Nhưng ở nước ta thì đến 60 tuổi đã bắt đầu nghỉ hưu, thú thật tôi rất tiếc nguồn lực này. Ở cơ quan khác tôi không nói, riêng ở Quốc hội thì phải tính lại việc đó. Chúng ta không tính không được, thậm chí phải tăng đại biểu chuyên trách lên, tăng chuyên gia lên, họ là những người có kỹ năng, có hiểu biết chuyên sâu. Tỷ lệ chuyên gia bây giờ là 25 - 30% là quá ít, phải 50%, thậm chí 70%, như thế mới hoàn thành được nhiệm vụ.
Làm công tác nghị trường cũng cần phải có kinh nghiệm nghị trường. Cho nên ngay từ đầu khóa cần có lớp đào tạo kỹ năng, làm đại biểu Quốc hội thì kỹ năng đối ngoại và ngoại ngữ là phải biết. Một khóa 5 năm thì cứ cho 2 năm đầu học ngoại ngữ là có thể giao tiếp rồi. Chúng ta có nhiều người từ khóa này đến khóa khác, đến hết nhiệm kỳ Quốc hội cũng không nói được ngoại ngữ. Việc này đừng coi thường bởi nó rất hiện thực.
Tôi cho rằng, bước vào kỷ nguyên mới thì Quốc hội cũng phải chuyển mình. Lãnh đạo Quốc hội các nước đi dự hội nghị quốc tế, các bạn có hình dung họ như thế nào không? Mỗi người một vali, họ đi từ sân bay về nơi họp, cất đồ xong là họ đến ngay hội trường và giơ tay phát biểu luôn bằng tiếng Anh. Còn đại biểu của ta nhiều khi biết rất sâu vấn đề cần tham luận, nhưng không có ngoại ngữ nên phải qua phiên dịch, và sự truyền đạt gián tiếp này sẽ hạn chế khả năng lĩnh hội của đối tác rất nhiều. Tôi cho rằng, cơ hội tiếp xúc trực tiếp với các đối tác nước ngoài luôn là những cơ hội vàng cho đất nước, cho dân tộc, cho màu cờ sắc áo Việt Nam.
Bây giờ chúng ta đã đổi mới thì ít nhất các cơ quan ở cấp Vụ phải quyết liệt, phải giỏi ngoại ngữ vì đi đàm phán rất nhiều. Mà là một nhà đàm phán thì phải giỏi ngoại ngữ. Chúng ta không có ngoại ngữ thì trong các cuộc đàm phán sẽ rất thiệt thòi, vì thế nên nhận thức rõ điều này. Kỷ nguyên mới ở đâu? Kỷ nguyên mới phải bắt đầu từ những đổi mới như thế, và đó là điểm mấu chốt của công tác cán bộ. Đường lối đối ngoại đã có, nhưng thực hiện hay không là con người, là cán bộ. Cả một tập thể phải thống nhất, đồng tâm như vậy. Nhiệm vụ của mình, nhưng cán bộ không đáp ứng được cái tầm của nhiệm vụ thì chúng ta khó phát triển được.
- Trân trọng cảm ơn Đại sứ về cuộc trao đổi này!