Tận dụng ưu đãi thuế, đẩy mạnh xuất khẩu sang châu Âu
Khu vực Liên minh châu Âu (EU) vẫn còn dư địa lớn cho doanh nghiệp Việt Nam nhờ nhiều ưu đãi thuế quan từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA).

Nhà mua hàng ở châu Âu giao thiệp, tìm kiếm nhà cung cấp ở Việt Nam tại sự kiện kết nối chuỗi cung ứng hàng hóa quốc tế năm 2025 tại Thành phố Hồ Chí Minh đầu tháng 9/2025. (Ảnh CTV)
Tuy vậy, để có thể tận dụng được những lợi thế, “cơ hội vàng” này, doanh nghiệp Việt Nam cần hiểu đúng và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định.
Thị phần còn tiềm năng, rộng mở
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, thị trường EU với khoảng 450 triệu dân và cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với gần 99% dòng thuế trong vòng bảy năm (xóa bỏ hơn 99% dòng thuế vào năm 2027) theo Hiệp định EVFTA đang mở ra “cơ hội vàng” cho doanh nghiệp Việt Nam.
Tổng Giám đốc điều hành Công ty TradeComply Nguyễn Thị Phượng cho biết:
Những điều kiện đó sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các ngành hàng chủ lực của Việt Nam như dệt may, da giày, đồ gỗ, nông sản chế biến, thủy sản…, nhất là khi EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của nước ta.
Chẳng hạn, thuế suất đối với áo sơ-mi xuất khẩu sang Liên bang Đức giảm từ 12% xuống 0%, giúp tiết kiệm gần một triệu USD cho lô hàng một triệu chiếc áo.
Tương tự, thuế suất mặt hàng cà-phê rang xay giảm từ 7-11% xuống 0%, mang lại ưu thế cạnh tranh lớn cho các nhà xuất khẩu Việt Nam so với đối tác từ Brazil hay Indonesia…
Theo bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy, Trưởng Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển (kiêm nhiệm Đan Mạch, Iceland, Na Uy, Latvia), EU có 27 quốc gia nhưng Việt Nam chủ yếu xuất khẩu hàng hóa sang bảy quốc gia (chiếm đến 78% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt vào EU).
Như vậy, gần như các nhà xuất khẩu của nước ta ít “tương tác” với 20 quốc gia còn lại. Điển hình là khu vực Bắc Âu, mặc dù dân số ít nhưng lại là thị trường rất tiềm năng vì đây là những quốc gia có mức thu nhập bình quân đầu người cao hàng đầu thế giới.
Bà Nguyễn Đắc Bội Quỳnh, Giám đốc Xúc tiến thương mại Khối doanh nghiệp Việt Nam-Phòng Thương mại và Công nghiệp Pháp tại Việt Nam (CCIFV) cho biết:
Tại châu Âu, thị trường những mặt hàng trang trí nội thất có giá trị rất lớn, đạt 196 tỷ USD vào năm 2024 và dự kiến sẽ lên đến 278 tỷ USD vào năm 2033.
Còn thị trường các mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở châu Âu có quy mô khoảng 293 tỷ USD trong năm 2024 và dự kiến sẽ tăng lên khoảng 576 tỷ USD vào năm 2033.
Số liệu của cơ quan chức năng cho thấy, với EVFTA, trong giai đoạn 2020-2024, thương mại song phương Việt Nam-EU đã đạt hơn 64,6 tỷ USD, tăng trưởng 46,5% so với 5 năm trước.
Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang EU đã tăng 56,4%, từ 31,1 tỷ USD lên gần 48,7 tỷ USD; nhập khẩu tăng 13%, từ 14 tỷ USD lên 15,9 tỷ USD. Theo các chuyên gia, EVFTA đã tạo ra cơ hội lớn cho các ngành hàng chủ lực của Việt Nam, nhờ tận dụng lợi thế từ chính sách xóa bỏ thuế nhập khẩu.
Ngay khi hiệp định có hiệu lực (1/8/2020), EU đã xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 85,6% dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU.
Đến năm 2027, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 99,2% dòng thuế, tương ứng khoảng 99,7 % tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU được hưởng ưu đãi thuế quan.
Đây là lợi thế rất lớn đối với Việt Nam trong bối cảnh Hoa Kỳ tăng cường áp dụng các chính sách thuế đối ứng với các nước, Việt Nam và EU đều đang rất cần đa dạng hóa thị trường và đối tác thương mại.
Nâng cao trách nhiệm, tuân thủ nghiêm túc
Bà Nguyễn Thị Phượng cho rằng: EVFTA được xem là “đòn bẩy vàng” cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) của Việt Nam, nhưng điều này chỉ đúng khi doanh nghiệp tuân thủ theo quy định, nếu không chỉ một lỗi nhỏ có thể khiến mất toàn bộ ưu đãi thuế quan.
Các vấn đề phổ biến bao gồm: Việc áp sai mã HS dẫn đến mức thuế không chính xác; không đáp ứng được Quy tắc xuất xứ (ROO), như việc không chứng minh được 40% hàm lượng giá trị khu vực tối thiểu mà hàng hóa phải đạt; thiếu các chứng từ hợp lệ như C/O Mẫu EUR.1...
Doanh nghiệp cũng cần thường xuyên cập nhật các thông tin về rào cản phi thuế quan (NTMs) như an toàn thực phẩm, kiểm dịch, nhãn mác và tiêu chuẩn môi trường.
Bên cạnh thuế quan, một làn sóng quy định mới và khắt khe của EU sắp tác động trực tiếp đến các nhà xuất khẩu Việt Nam.
Từ năm 2026, Cơ chế điều chỉnh Carbon biên giới (CBAM) sẽ áp thuế carbon đối với các mặt hàng nhập khẩu như thép, xi-măng, nhôm, phân bón...; yêu cầu các nhà xuất khẩu Việt Nam trong những ngành hàng này phải báo cáo lượng phát thải khí CO2.
Cùng với đó, quy định chống phá rừng của EU (EUDR) có hiệu lực thực thi đầy đủ từ cuối tháng 6/2025 đối với SMEs và cuối tháng 12/2025 đối với các doanh nghiệp lớn; sẽ yêu cầu các sản phẩm như cà-phê, gỗ, cao su… nhập khẩu vào EU phải chứng minh không được trồng trên đất có nguồn gốc từ rừng tự nhiên bị phá sau ngày 31/12/2020.
Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có hồ sơ, hệ thống truy xuất nguồn gốc vùng canh tác minh bạch, hiệu quả và cung cấp bản đồ địa lý rõ ràng, chứng minh không xâm hại rừng tự nhiên.
Các nhà nhập khẩu EU cũng ngày càng yêu cầu sự minh bạch trong chuỗi cung ứng về lao động và môi trường theo các quy định về Trách nhiệm giải trình và tiêu chuẩn ESG (môi trường, xã hội và quản trị).
Theo bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy, các nhà xuất khẩu nước ta cần có những sản phẩm hàng hóa khác biệt hơn, có tính bền vững, sáng tạo. Doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng “xanh hóa” chuỗi cung ứng, chú trọng tạo ra những mặt hàng có chất lượng và giá trị gia tăng cao, các sản phẩm xanh.
Từ đó, các chuyên gia cho rằng: Vấn đề sống còn trong thương mại quốc tế hiện nay là tuân thủ nghiêm ngặt các quy định và tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu.