Tản mạn về làng
Trong tâm trí người Việt, làng là một khái niệm đồng thời là một thực thể rất thiêng liêng.
Có hồi chúng ta thống kê, Việt Nam có tới 90% dân số làm nông nghiệp. Tức họ sống ở làng. 10% còn lại kia cũng... từ làng mà ra phố. Tôi nhớ có ai đó nói, đè một ông "phố" ra cào ống chân ông ấy, thế nào cũng rơi ra những... vẩy bùn.
Thế tức là, làng là nơi chôn nhau cắt rốn, là quê hương bản quán, là máu thịt, là nơi để trở về dẫu có cả những hành trình vượt đại dương... từng có hẳn một chương trình truyền hình thực tế kéo dài mấy năm mang tên "sinh ra từ làng" rất thú vị.
"Phép vua thua lệ làng", tự ngàn xưa đã thế, giờ, dẫu làng bị rạn nứt nhiều, mở ra rất nhiều từ khi những lũy tre làng bị phá bỏ, làng vươn lên như phố, rường mối làng lỏng lẻo... nhưng làng vẫn là... làng.
Làng là một cố kết hết sức chặt chẽ, là nơi hun đúc và gìn giữ, tiềm ẩn sức mạnh hết sức vô biên, dẫu nhìn qua có vẻ như hết sức bảo thủ và lỏng lẻo, lạc hậu.
Hãy hình dung những khóm tre với chằng chịt rễ, nó đan kết với nhau làm thành những tường thành vững chắc, muốn chặt một cây rất khó, đánh cả cụm càng khó hơn. Những người đốn tre là những thanh niên khỏe mạnh và thông minh. Chỉ cơ bắp không đốn được tre, và chỉ thông minh nhưng loẻo khoẻo cũng thế. Phải kết hợp cả 2. Từng có truyền thuyết rằng, muốn thử con rể, ông bố vợ tương lai thường đưa cho chàng trai ứng thí ấy một con dao sắc, rồi chỉ một cây tre ở... giữa bụi, bảo chặt giúp bác. Tất tật tài hoa, khéo léo, sức mạnh, trí thông minh... nó hiện hết ra lúc chàng trai chặt tre ấy. Cũng làng, từng có câu: nhất chặt tre nhì ve gái, tức hai việc khó của trai làng. Làng còn chắc chắn bền vững hơn những bụi tre ấy nhiều, bởi làng có hồn làng, có trái tim, có những con người. Mà những người dân ở làng ấy, nó bến quện, nó quấn quýt, nó chằng chéo, nó nhằng nhịt... các mối quan hệ, từ quan hệ máu thịt gia đình, đến sui gia, thông gia, đến hàng xóm... chả đã có câu "bán anh em xa mua láng giềng gần" là gì?
Và làng nó hiển hiện rõ nhất ở những dịp nghỉ lễ, tết. Dẫu bây giờ, những người trẻ hiện đại đã chọn cách đi du lịch khi có dịp nghỉ dài ngày, du lịch trong nước, du lịch nước ngoài, khóa cửa để đi, thì những chuyến tàu xe nườm nượp vẫn dằng dặc chở những đứa con xa về với làng. Cứ tết mà xem, tàu xe trở thành đề tài rất hot trên báo chí và mạng xã hội. Chen chúc khổ sở nhưng vẫn nhăm nhăm để về với làng, với gia đình.

Giỗ họ ở làng.
Về với làng là về với tổ tiên, với đất đai ông bà từ ngàn xưa, với thói quen, đất lề quê thói, với truyền thống, văn hóa, với những gì khiến ta rưng rưng nhất, cảm động nhất, với mong manh nhất nhưng cũng bền vững nhất, dẫu phải công nhận, tới nay, làng đã có những thay đổi rất nhiều.
Nhưng tên làng, có những cái tên cả ngàn năm, mãi mãi còn.


Cổng làng và đình làng Thế Chí Tây, thị xã Phong Điền, Huế.
Ba mẹ tôi là cán bộ, đều thoát ly đi làm từ hồi rất trẻ. Và hoàn cảnh chiến tranh khiến ông bà thường xuyên lang thang trên những chiếc xe đạp chở cả gia đình trên ấy, sơ tán hết nơi này tới nơi khác, đa phần là trọ nhà dân, nơi vài tháng, chỗ dăm năm..., nhưng tới khi về hưu, cả hai ông bà đều quyết định về làng ở, một cái làng có cái tên găm vào trí óc non nớt của anh em chúng tôi từ hồi còn bé tí, hồi còn chia cắt đất nước, chúng tôi sống ở phía Bắc, làng tôi phía Nam, bị ngăn bởi con sông Bến Hải. Ba tôi kể về cái làng mình thú vị tới nỗi, trong tôi đinh ninh rằng, chuyện về làng sống nó là đương nhiên. Nên ngay khi vừa thống nhất đất nước, cả nhà tôi đã từ Thanh Hóa về quê nội là làng Thế Chí Tây, huyện (giờ là thị xã) Phong Điền, Huế.
Hồi ấy làng rất khổ, cả nước khổ thì cái làng nhỏ nhoi vừa thoát khỏi chiến tranh kẹp giữa bên sông bên biển ấy càng khổ. Mà khổ nhất là phương tiện giao thông, từ Huế phải ngồi trên những con đò dọc mấy tiếng đồng hồ lạch phạch để về làng. Mà đò chật nhém, mà thuốc rê mù mịt, mà đói, nhưng vẫn về làng.
Tôi có bài thơ về làng, có những câu thế này: "làng như giọt mực của trời/ viết muôn vạn những cuộc đời thân thương.../ đình làng phơi nắng ngậm sương/ ướp hồn quê những vô thường nghìn năm/ làng nghiêng theo buổi trăng rằm/ này na này lựu này tằm này dâu/ đình làng vô tận nông sâu/ bao dông bão vẫn mái đao dịu dàng/ đình làng kết dọc nối ngang/ bàn chân thập thững ngỡ ngàng quê hương...".
Nhưng rồi cuối cùng, tôi lại là người không ở lại được với làng. Ba tôi đã đành, mẹ tôi người phụ nữ Ninh Bình, giờ đã mãi mãi nằm lại cùng ba tôi ở cái làng Thế Chí Tây ấy, và em trai tôi, giờ cũng ở làng dù khi làm việc thì làm ở phố.
Tôi lưu lạc theo nghề ở Tây Nguyên nhưng hàng năm vẫn về làng dù ký ức của tôi với làng rất mờ nhạt bởi được sống rất ít với làng.
Và vẫn thắt ruột xuýt xoa khi đọc những câu thơ về làng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: "Những địa danh trôi từ thuở xa xôi/ Trôi bằng máu và trôi bằng nước mắt/ Đã đọng lại thành tên người, tên đất/ Bao năm rồi suốt mặt phá, triền sông"..., và "Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân".
Làng, phía sau mỗi cánh cổng làng ấy, là sự kết nối cộng đồng, là những phong tục, tập quán, những nét văn hóa riêng biệt của từng vùng quê.
Làng, với hình ảnh lũy tre, bờ đê, cây gạo. Cây gạo đứng ở bến sông như hoa tiêu chỉ dẫn cho những người con xa quê trở về.
Và những cây đa, những làng Việt cổ thường có những cây đa đầu làng, như một tín hiệu làng, địa chỉ làng, một chứng nhân và cột mốc của làng.
Thời sơ tán ở Thanh Hóa tôi đã ở tới mấy làng có tên đa, trong đó ấn tượng nhất là làng Tam Đa, làng có 3 cây đa khổng lồ ở 3 góc làng.
Làng, với ngồn ngộn ca dao cổ tích, kinh nghiệm sống, yêu thương, kết nối, giằng níu các mối quan hệ.
Tất nhiên làng cũng là nơi lưu giữ những bảo thủ, lạc hậu, những trì trệ, những thói hư tật xấu..., nó khiến làng bùng nhùng trong những níu kéo giằng trì.
Thế nên cái chủ trương và mô hình "làng trong phố" trở nên đắc dụng khi làng tiếp thu cái văn minh, hiện đại, bỏ được cái bảo thủ lạc hậu... để làng vẫn là làng nhưng lại vẫn văn minh, vẫn hòa nhập trong sự phát triển chung.
*Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả
Nguồn Người Đưa Tin: https://nguoiduatin.vn/tan-man-ve-lang-204250323153054106.htm