Tăng chất lượng nhân lực Việt Nam
Bức tranh toàn cảnh về nhân lực ở Việt Nam hiện nay có nhiều điểm sáng, đã xuất hiện những yếu tố góp phần làm tăng chất lượng nhân lực.
Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết 11/NQ-CP với các giải pháp hỗ trợ người lao động (NLĐ) quay trở lại thị trường lao động, NLĐ đang làm việc tại doanh nghiệp... đã làm cho thị trường lao động quý I/2022 khởi sắc. Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động của quý I/2022 chỉ khoảng 1,3 triệu người, giảm 135,2 nghìn người so với quý IV/2021. Thu nhập bình quân hằng tháng của NLĐ trong quý I/2022 là 6,4 triệu đồng, tăng 1 triệu đồng so với quý IV/2021 và tăng 110.000 đồng so với cùng kỳ năm trước. Thị trường lao động của quý I/2022 đang dần sôi động trở lại, đời sống của NLĐ được cải thiện, thu nhập phục hồi...
Bà Valentina Barcucci, chuyên gia thuộc Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam, phân tích: Năm 2000 có 65,3% lực lượng lao động thuộc lĩnh vực nông nghiệp, đến năm 2020 giảm xuống còn 37,2%, tăng thêm lao động cho lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp. Trước đây, lĩnh vực nông nghiệp tuyển dụng nhiều lao động nhất, nhưng sau 2 thập niên, lĩnh vực dịch vụ và nông nghiệp tuyển dụng số lao động tương đương nhau (lần lượt là 37,3% và 37,2%) và theo sát là lĩnh vực công nghiệp (25,5%).
Nhưng bà Valentina Barcucci cũng cho rằng, Việt Nam khó áp dụng những thế mạnh để đạt bước phát triển tiếp theo.
Ngành công nghiệp chế tạo với giá trị gia tăng thấp chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực FDI hiện tại đã và đang là công cụ khởi đầu cho tăng trưởng kinh tế của nước ta. Tuy nhiên, một nền công nghiệp có giá trị gia tăng cao hơn, đổi mới, sáng tạo và một lực lượng lao động có kỹ năng là cần thiết để bảo đảm nền kinh tế có thể phát triển hơn nữa. Việt Nam cần một mô hình tăng trưởng mới để thoát khỏi nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp và để tăng trưởng bền vững. Điều này đòi hỏi một thị trường lao động được hiện đại hóa.
Một yếu tố then chốt đóng góp cho sự tăng năng suất lao động của Việt Nam trong 2 thập niên qua là sự chuyển dịch từ nông trại sang nhà máy. Tuy nhiên, có lẽ Việt Nam đã gần chạm đến điểm cận biên để sự chuyển dịch này có thể tiếp tục góp phần tăng năng suất. Giờ đây, vấn đề quan trọng là phải tìm kiếm các giải pháp mới để tăng năng suất lao động.
Theo ông Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, năng suất lao động Việt Nam dù đã được cải thiện trong giai đoạn 2016-2020, song vẫn bị tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực.
Những yếu tố làm cho năng suất lao động của Việt Nam thấp là cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch, lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao; máy móc, thiết bị, công nghệ còn lạc hậu; chất lượng, cơ cấu và hiệu quả sử dụng lao động chưa đáp ứng yêu cầu. Bên cạnh đó là trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn nhiều bất cập; còn một số “điểm nghẽn” về thể chế và thủ tục hành chính...
Theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Thúy Quỳnh (Viện Chiến lược và chính sách tài chính - Bộ Tài chính), nguồn nhân lực luôn là yếu tố tạo nên sự thành công của mọi tổ chức, quốc gia. Đây là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định năng suất, chất lượng, hiệu quả sử dụng các nguồn lực khác trong hệ thống các nguồn lực.
Việt Nam đang có lợi thế với lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Tuy nhiên, nhân lực còn yếu về chất lượng, thiếu hụt lao động có tay nghề cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động và hội nhập; khoảng cách giữa giáo dục nghề nghiệp và nhu cầu của thị trường lao động ngày càng lớn; lao động thiếu năng động và sáng tạo, tác phong chuyên nghiệp...
Chất lượng nguồn nhân lực được đánh giá thông qua nhiều yếu tố - trí lực, thể lực, dân số. Việc cải thiện trí lực phụ thuộc vào sự nâng cao trình độ giáo dục - đào tạo. Việc cải thiện thể lực phục thuộc vào tình trạng sức khỏe và y tế. Trong khi đó, quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng lao động của mỗi quốc gia.
Dân số và sự chăm sóc y tế - sức khỏe có mối quan hệ mật thiết với nhau. Điều kiện chăm sóc y tế có tốt thì sức khỏe của người dân mới tăng cường.
Khoa học và công nghệ có tác động trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, làm thay đổi quá trình tổ chức, trình độ chuyên môn và là động lực thúc đẩy NLĐ không ngừng học hỏi, tự đào tạo, tự trao dồi kiến thức. Vì vậy, chúng ta cần đào tạo, bồi dưỡng thu hút các nhân tài nhằm tạo ra một đội ngũ các chuyên gia, các nhà khoa có năng lực giỏi phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Thực tế cho thấy, nguồn nhân lực của Việt Nam đang ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của dân số. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý I/2022 ở nước ta là 51,2 triệu người.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), chỉ số vốn nhân lực (HCI) của Việt Nam đã tăng từ 0,66 lên 0,69 điểm trong 10 năm (2010-2020). Chỉ số HCI của nước ta cao hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập. Việt Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương có điểm cao nhất về HCI, phản ánh những thành tựu lớn trong giáo dục phổ thông và y tế trong những năm qua.
Theo Báo cáo phát triển con người toàn cầu, chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2019 của Việt Nam là 0,704, xếp vị trí 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Từ năm 1990-2019, HDI của Việt Nam đã tăng hơn 48%, từ 0,475 lên 0,704 điểm, thuộc các nước có tốc độ tăng HDI cao nhất trên thế giới. Chỉ số HDI của Việt Nam năm 2019 là 0,704 điểm, cao hơn mức trung bình 0,689 của các quốc gia đang phát triển và dưới mức trung bình 0,753 của nhóm quốc gia phát triển con người cao.
Xét một cách tổng quan, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đã có sự cải thiện rõ rệt. Tất cả những yếu tố này đã góp phần nâng cao năng suất lao động của Việt Nam trong thời gian qua.
Nguồn PetroTimes: https://petrotimes.vn/tang-chat-luong-nhan-luc-viet-nam-650494.html