Tăng cường cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại để nắm bắt cơ hội từ EVFTA

EVFTA tiến tới có hiệu lực được kỳ vọng sẽ thúc đẩy xuất nhập khẩu Việt Nam - EU tăng nhanh. Tuy nhiên, điều này cũng dẫn tới khả năng tăng số lượng vụ việc phòng vệ thương mại giữa hai bên để bảo vệ ngành sản xuất trong nước.

Trong giai đoạn chạy đua nước rút phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA), Bộ Công Thương thời gian qua đã đưa ra nhiều thông tin về hoạt động phòng vệ thương mại trong Hiệp định này để người dân và doanh nghiệp nắm rõ.

Mới đây, ông Lê Triệu Dũng - Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương đã tiếp tục có những chia sẻ cụ thể hơn với Tạp chí Công Thương về vấn đề này.

Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại Lê Triệu Dũng

Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại Lê Triệu Dũng

PV: Thưa ông, so với các FTA mà Việt Nam đã tham gia thời gian qua, ông đánh giá EVFTA sẽ có điểm khác biệt như thế nào đối với hoạt động phòng vệ thương mại?

Cục trưởng Lê Triệu Dũng: EVFTA là Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, mang tính toàn diện, có chất lượng rất cao và bảo đảm cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU, đồng thời phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cũng như lưu ý đến chênh lệch về trình độ phát triển giữa hai bên.

Theo Hiệp định EVFTA, gần như 100% số dòng thuế và kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của hai bên sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau lộ trình tương đối ngắn.

Với các Hiệp định FTA có mức độ cắt giảm thuế quan rất cao như EVFTA thì áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam hay thậm chí là các doanh nghiệp EU trong một số lĩnh vực cũng sẽ cao hơn, do vậy nhu cầu sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại cũng sẽ tăng.

Chương về phòng vệ thương mại trong Hiệp định EVFTA dựa trên các quy định của WTO, đồng thời bổ sung các nguyên tắc mang tính tiến bộ, phù hợp với hệ thống pháp luật về phòng vệ thương mại của EU và Việt Nam, giúp cho nền kinh tế, các ngành sản xuất trong nước có công cụ “phòng vệ” hợp pháp, tiến bộ, đảm bảo hiệu quả của việc tham gia Hiệp định.

Các điểm mới về phòng vệ thương mại trong EVFTA là:

Thứ nhất, bổ sung các quy định giới hạn việc sử dụng các công cụ này để tránh lạm dụng và đảm bảo công bằng, minh bạch. Các quy định này tạo ra môi trường kinh doanh ổn định và thuận lợi hơn cho doanh nghiệp xuất khẩu.

Thứ hai, EVFTA quy định nguyên tắc áp dụng mức thuế thấp hơn, tức là thuế chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp chỉ ở mức đủ để loại bỏ thiệt hại (trong khi WTO không bắt buộc sử dụng quy tắc này).

Một điểm đáng lưu ý là theo cam kết EVFTA, hai bên sẽ không áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp nếu việc này không phù hợp với lợi ích chung (tức là bên cạnh việc xem xét tình hình của ngành sản xuất trong nước thì nước điều tra cũng cần xem xét tình hình, quan điểm của nhà nhập khẩu, hiệp hội ngành hàng, tổ chức đại diện người tiêu dùng và các doanh nghiệp hạ nguồn).

Thứ ba, EVFTA cũng quy định về cơ chế tự vệ song phương, để đảm bảo việc cắt giảm thuế quan theo Hiệp định không gây ra các cú “sốc” đối với các ngành sản xuất trong nước.

Hiệp định EVFTA quy định cơ chế tự vệ song phương trong thời gian chuyển đổi là 10 năm, tạo cơ sở pháp lý đảm bảo được quyền lợi của các bên được sử dụng công cụ tự vệ chính đáng trong việc bảo vệ ngành sản xuất trong nước nếu có thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại do việc cắt giảm thuế quan từ Hiệp định.

PV: Theo ông, sau khi EVFTA có hiệu lực, những ngành hàng, sản phẩm nào của Việt Nam có khả năng sẽ nằm trong “tầm ngắm” điều tra phòng vệ thương mại sắp tới?

Cục trưởng Lê Triệu Dũng: Khi EVFTA có hiệu lực, thương mại hàng hóa giữa hai nước sẽ gia tăng do đại đa số các dòng thuế nhập khẩu sẽ được đưa về mức 0%. Từ đó, có thể dự đoán rằng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU sẽ tăng nhanh, dẫn tới khả năng tăng số lượng vụ việc phòng vệ thương mại giữa hai bên (để bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước sự gia tăng hàng hóa nhập khẩu).

Quan hệ thương mại giữa ta và EU đang phát triển nhanh chóng. Trong 5 năm vừa qua, EU không áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp nào đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.

Tuy nhiên, khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, nếu kim ngạch xuất khẩu những ngành hàng, sản phẩm thế mạnh của ta (như nông sản, thủy sản, dệt may, da giày hoặc sắt thép, v.v) hoặc EU (như một số mặt hàng nông sản, hóa chất, v.v) gia tăng đột biến (do mức giảm thuế nhanh), tạo sức ép cạnh tranh hoặc gây thiệt hại cho các ngành sản xuất của nước nhập khẩu sẽ có khả năng bị điều tra phòng vệ thương mại.

Ngoài ra, do các lợi ích mà Hiệp định EVFTA đem lại là rất lớn nên không loại trừ nguy cơ một số doanh nghiệp tìm cách gian lận xuất xứ hoặc lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại mà EU đang áp với nước khác để hưởng lợi bất chính.

Trong bối cảnh đó, các hoạt động phòng vệ thương mại cần tập trung cảnh báo, ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp này.

Không loại trừ nguy cơ một số doanh nghiệp tìm cách gian lận xuất xứ hoặc lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại để hưởng lợi bất chính từ EVFTA

Không loại trừ nguy cơ một số doanh nghiệp tìm cách gian lận xuất xứ hoặc lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại để hưởng lợi bất chính từ EVFTA

PV: Vậy Bộ Công Thương đã có sự chuẩn bị thế nào để sử dụng phòng vệ thương mại như công cụ thực thi các quy định của Hiệp định này, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước?

Cục trưởng Lê Triệu Dũng: Để phát huy vai trò của các biện pháp phòng vệ thương mại, Việt Nam đã thực hiện nhiều công việc cần thiết và đạt được nhiều kết quả tích cực. Cụ thể là hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, thể chế.

Với sự ra đời của Luật quản lý ngoại thương và các văn bản hướng dẫn về các biện pháp phòng vệ thương mại (Nghị định 10/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 1 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại và Thông tư 37/2019/TT-BCT ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Bộ Công Thương quy định chi tiết một số nội dung về các biện pháp phòng vệ thương mại), Việt Nam đã hoàn thiện tương đối đầy đủ, toàn diện cơ sở pháp lý cho các hoạt động điều tra, xử lý các vụ việc phòng vệ thương mại.

Trong Kế hoạch hành động thực hiện Hiệp định EVFTA, đối với nội dung phòng vệ thương mại, ngoài việc sẽ ban hành Thông tư để thực hiện các cam kết, quy định về phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương cũng chú trọng việc đẩy mạnh cung cấp thông tin phòng vệ thương mại cho các doanh nghiệp dưới các hình thức đa dạng như xây dựng, phổ biến các tài liệu về phòng vệ thương mại (kể cả dưới hình thức trực tuyến), tổ chức các chương trình đào tạo, hướng dẫn để các doanh nghiệp nắm vững, chủ động thực hiện các quy định về phòng vệ thương mại để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình theo đúng các quy định trong Hiệp định.

Bên cạnh đó, thực hiện Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 04 tháng 7 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ, hiện nay Bộ Công Thương cũng đang thực hiện việc cảnh báo sớm đối với những mặt hàng có nguy cơ bị EU điều tra, áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ để các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp nắm thông tin, thực hiện các biện pháp phù hợp.

Để đảm bảo các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp có đủ năng lực về phòng vệ thương mại khi tham gia EVFTA và các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới, Bộ Công Thương đang xây dựng Đề án nâng cao năng lực và hiệu quả của công tác phòng vệ thương mại trong bối cảnh Việt Nam tham gia các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Đề án sẽ đưa ra các định hướng toàn diện, dài hạn cũng như các nhiệm vụ cụ thể về phòng vệ thương mại để đảm bảo lợi ích của nền kinh tế, các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là tham gia Hiệp định EVFTA.

PV: Khuyến nghị mà Bộ Công Thương đưa ra đối với các doanh nghiệp trong vấn đề phòng vệ thương mại sau khi EVFTA có hiệu lực là gì, thưa ông?

Cục trưởng Lê Triệu Dũng: Việc thực thi Hiệp định EVFTA đòi hỏi các doanh nghiệp cần tìm hiểu, nắm vững các cam kết trong Hiệp định, kể cả các quy định về phòng vệ thương mại để có thể chuẩn bị, khai thác các lợi ích mà Hiệp định đem lại, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.

Đối với doanh nghiệp xuất khẩu của ta, để chủ động ứng phó có hiệu quả với các biện pháp phòng vệ thương mại của nước ngoài, các doanh nghiệp cần:

Tìm hiểu quy định pháp luật, thực tiễn điều tra phòng vệ thương mại của EU. Bộ Công Thương (Cục Phòng vệ thương mại) sẵn sàng hỗ trợ các ngành sản xuất trong nước tìm hiểu các nội dung này.

Thường xuyên theo dõi, nghiên cứu các khuyến cáo cảnh báo sớm các biện pháp phòng vệ thương mại từ cơ quan phòng vệ thương mại để có các kế hoạch phù hợp.

Nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt là nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, đa dạng hóa thị trường, thường xuyên tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới, tránh tăng trưởng xuất khẩu quá nóng vào thị trường EU; chuyển dần từ chiến lược cạnh tranh bằng giá sang cạnh tranh bằng chất lượng và thương hiệu; có chiến lược rà soát giá bán một cách phù hợp để tránh bị coi là bán phá giá và phối hợp chặt chẽ với các bạn hàng tại nước sở tại để cập nhật thông tin.

Khi đã có thông tin về vụ việc điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa liên quan, doanh nghiệp cần cập nhật tin tức và tích cực tham gia, hợp tác trong quá trình điều tra để tránh việc bị cơ quan điều tra sử dụng số liệu sẵn có bất lợi khi đưa ra kết luận về vụ việc.

Trong các vụ việc điều tra chống trợ cấp, doanh nghiệp cần tích cực phối hợp cung cấp thông tin để Bộ Công Thương tổng hợp trả lời bản câu hỏi dành cho Chính phủ.

Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương, Hiệp hội, các doanh nghiệp trong ngành trong quá trình ứng phó vụ việc.

Có chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu phù hợp để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, giảm thiểu rủi ro bị điều tra “chống lẩn tránh” biện pháp phòng vệ thương mại hoặc gian lận xuất xứ.

Thy Thảo

Nguồn Tạp chí Công thương: http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/tang-cuong-canh-bao-som-ve-phong-ve-thuong-mai-de-nam-bat-co-hoi-tu-evfta-71173.htm