Tăng cường kỷ luật tài khóa, ưu tiên an sinh và đầu tư chiến lược
Chiều 13/11, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về Dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2026 – văn kiện tài chính quan trọng mở đầu cho năm bản lề của giai đoạn phát triển 2026–2030. Với việc xác lập rõ ràng các chỉ tiêu thu – chi – bội chi, đồng thời đề ra hàng loạt yêu cầu điều hành gắn với tiết kiệm, chống lãng phí và tăng cường hiệu quả chi tiêu công, Nghị quyết tạo khuôn khổ tài khóa cần thiết để giữ vững ổn định vĩ mô và mở rộng nguồn lực cho an sinh xã hội, cải cách tiền lương và đầu tư các dự án trọng điểm quốc gia.

Thiết lập khuôn khổ thu – chi và bội chi ngân sách nhằm bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô
Quốc hội quyết nghị thông qua toàn bộ dự toán NSNN năm 2026 trên cơ sở xem xét báo cáo của Chính phủ, báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và Tài chính và ý kiến các đại biểu Quốc hội. Việc xác lập các chỉ tiêu thu – chi cụ thể được coi là nền tảng quan trọng để tăng tính chủ động trong điều hành tài khóa của Chính phủ.
Theo đó, Quốc hội thông qua tổng thu NSNN năm 2026 là 2.529.467 tỷ đồng, trong đó thu ngân sách trung ương 1.225.356 tỷ đồng và thu ngân sách địa phương 1.304.111 tỷ đồng. Việc phân định rõ cơ cấu thu giữa trung ương và địa phương cho thấy yêu cầu bảo đảm tính tự chủ đi đôi với trách nhiệm cân đối của từng cấp ngân sách.
Tiếp đó, để đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng lớn của nền kinh tế và hệ thống chính trị, Quốc hội phê duyệt tổng chi NSNN 3.159.106 tỷ đồng. Trong số này, chi ngân sách trung ương 1.809.056 tỷ đồng, gồm các khoản bổ sung quan trọng cho địa phương: 238.421 tỷ đồng bổ sung cân đối, 187.175 tỷ đồng bổ sung có mục tiêu và 53.554 tỷ đồng để bảo đảm thực hiện mức lương cơ sở 2,34 triệu đồng/tháng. Đồng thời, chi ngân sách địa phương 1.350.050 tỷ đồng, chưa bao gồm các khoản chi từ nguồn bổ sung.
Trên nền tảng thu – chi đã được lượng hóa, Quốc hội quyết định mức bội chi NSNN 605.800 tỷ đồng, tương đương 4,2% GDP, trong đó bội chi ngân sách trung ương là 583.700 tỷ đồng (4% GDP) và bội chi ngân sách địa phương là 22.100 tỷ đồng (0,2% GDP). Đây là mức bội chi được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu bảo đảm an toàn nợ công và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.
Cùng với đó, tổng nhu cầu huy động vốn của NSNN là 985.784 tỷ đồng, nhằm đáp ứng nhiệm vụ cân đối bội chi, chi trả nợ và các nghĩa vụ tài chính theo quy định. Các chỉ tiêu này là cơ sở để Chính phủ xây dựng kế hoạch vay nợ, phát hành trái phiếu và thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong năm 2026 một cách chủ động, hiệu quả.
Song song phân bổ ngân sách năm 2026, Nghị quyết cũng quy định rõ việc điều hành ngân sách năm 2025, trong đó nhấn mạnh yêu cầu rà soát phần kinh phí chưa sử dụng hết để thu hồi, đồng thời cho phép sử dụng các khoản tiết kiệm chi thường xuyên năm 2025 để xây dựng hệ thống trường phổ thông nội trú và liên cấp tại các xã biên giới đất liền. Việc tiếp tục cho phép chuyển nguồn từ tăng thu năm 2024 và tiết kiệm chi 2025 sang năm 2026 thể hiện sự linh hoạt cần thiết nhằm bảo đảm tính liên tục của các nhiệm vụ đầu tư.
Tăng thu bền vững, tiết kiệm chi, cải cách tiền lương và siết chặt kỷ luật tài khóa
Bên cạnh việc xác lập chỉ tiêu thu – chi, Nghị quyết cũng dành phần lớn dung lượng để hoàn thiện định hướng điều hành NSNN trong năm 2026, nhằm bảo đảm kỷ luật tài khóa, nâng cao hiệu quả chi và ưu tiên nguồn lực cho các lĩnh vực trọng tâm.
Trước hết, Nghị quyết yêu cầu Chính phủ phấn đấu thu NSNN năm 2026 tăng tối thiểu 10% so với ước thực hiện 2025. Để đạt mục tiêu này, Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thu, tăng cường quản lý thuế, chống thất thu, chống chuyển giá và gian lận thương mại, đặc biệt trong các hoạt động dựa trên nền tảng số. Cùng với đó, việc đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý thu, cải cách thủ tục hành chính và quản lý chặt chẽ tài sản công được xem là giải pháp then chốt để mở rộng cơ sở thu và bảo đảm nguồn thu ổn định.
Song song với yêu cầu tăng thu, Nghị quyết đặt ra nhiệm vụ tiết kiệm mạnh chi thường xuyên. Theo đó, 5% dự toán chi thường xuyên đầu năm phải được tiết kiệm để bổ sung nguồn đầu tư dự án đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, và 10% chi thường xuyên còn lại (ngoài phần tiết kiệm dùng cho cải cách tiền lương) được tiết kiệm để bổ sung nguồn chi an sinh xã hội. Đây là bước đi quan trọng nhằm chuyển hướng cấu trúc chi, giảm tỷ trọng chi thường xuyên và gia tăng nguồn lực dành cho đầu tư phát triển và an sinh xã hội.
Cùng với nhiệm vụ tiết kiệm chi, Nghị quyết quy định việc mở rộng phạm vi sử dụng nguồn tích lũy cải cách tiền lương để thực hiện các chính sách như điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp thường xuyên và chế độ ưu đãi đối với người có công. Đồng thời, địa phương được phép sử dụng phần tiết kiệm kinh phí do tinh giản biên chế và sắp xếp tổ chức bộ máy để bổ sung nguồn cải cách tiền lương. Từ năm 2026, Chính phủ chủ động sử dụng nguồn tích lũy để bảo đảm thực hiện đầy đủ chế độ tiền lương, phụ cấp và thu nhập theo quy định.
Để bảo đảm nguồn lực được phân bổ và sử dụng hiệu quả, Nghị quyết yêu cầu Chính phủ tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong phân bổ, giao dự toán và điều hành NSNN. Các bộ, ngành và địa phương phải rà soát kỹ lưỡng nhu cầu kinh phí, tránh trùng lắp giữa các chương trình mục tiêu quốc gia và giữa các nhiệm vụ chi có cùng mục tiêu. Việc nâng cao chất lượng chuẩn bị đầu tư, khắc phục tình trạng chậm triển khai và chậm giải ngân vốn đầu tư công được nhấn mạnh như một giải pháp trọng tâm, đi cùng yêu cầu kiên quyết điều chuyển vốn từ các dự án chậm sang các dự án có khả năng thực hiện và giải ngân tốt.
Bên cạnh đó, Nghị quyết yêu cầu tăng cường thanh tra, kiểm tra và giám sát quá trình sử dụng NSNN; quản lý chặt chẽ bội chi, vay nợ và nghĩa vụ trả nợ; đồng thời điều hành linh hoạt phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm bảo đảm an toàn nợ công và thanh khoản thị trường.
Để bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, Nghị quyết giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát việc thực hiện Nghị quyết. Kiểm toán Nhà nước được giao nhiệm vụ kiểm toán toàn diện việc thực hiện Nghị quyết theo đúng thẩm quyền.












