Tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh và nâng cao hiệu lực thực thi điều ước quốc tế

Thảo luận tại Tổ 7 (Đoàn ĐBQH tỉnh Nghệ An và Lâm Đồng) sáng 31/10, các đại biểu Quốc hội cho rằng, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, cũng như Luật Điều ước quốc tế là yêu cầu tất yếu, nhằm hoàn thiện thể chế, đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Thể chế hóa đầy đủ tinh thần đổi mới sáng tạo

ĐBQH Nguyễn Trường Giang (Lâm Đồng) khẳng định, sự cần thiết của việc sửa đổi Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp… Do đó, cần rà soát, cập nhật và mở rộng phạm vi sửa đổi để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản pháp luật, nhất là trong việc thể chế hóa đầy đủ tinh thần của Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

ĐBQH Nguyễn Trường Giang (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng

ĐBQH Nguyễn Trường Giang (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng

Theo đại biểu, khoản 1 Điều 21 của Luật hiện hành chưa có các quy định cụ thể. Vì vậy, việc sửa đổi là cần thiết để khắc phục bất cập kỹ thuật lập pháp, bảo đảm tính nhất quán trong hệ thống pháp luật.

Liên quan đến việc tách Quỹ Công nghiệp quốc phòng, an ninh thành hai quỹ độc lập là Quỹ Công nghiệp quốc phòng và Quỹ Đầu tư phát triển công nghiệp an ninh, đại biểu cho rằng: đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với thực tiễn song cần thể chế hóa đầy đủ tinh thần của Nghị quyết 57 trong cơ chế hoạt động của cả hai quỹ, nhất là trong việc chi hỗ trợ các nhiệm vụ nghiên cứu, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật đặc thù, cũng như triển khai các chương trình đổi mới sáng tạo có tính rủi ro cao nhưng có khả năng lan tỏa lớn.

Các ĐBQH Đoàn Nghệ An tham dự phiên thảo luận. Ảnh: HP

Các ĐBQH Đoàn Nghệ An tham dự phiên thảo luận. Ảnh: HP

Về nội dung bổ sung quy định liên quan đến Tổ hợp công nghiệp an ninh, đại biểu đề nghị cần điều chỉnh đồng bộ với các quy định hiện hành về Tổ hợp công nghiệp quốc phòng (Điều 42, 43, 45 của Luật hiện hành). Nếu chỉ bổ sung cho tổ hợp công nghiệp an ninh mà không sửa đổi tương ứng với tổ hợp công nghiệp quốc phòng sẽ dẫn tới thiếu thống nhất giữa hai mô hình có tính chất tương đồng về tổ chức, chức năng và mục tiêu hoạt động.

ĐBQH Nguyễn Tạo (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng

ĐBQH Nguyễn Tạo (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng

Một số đại biểu cũng kiến nghị sửa đổi khoản 3 Điều 23 của dự thảo, bởi hiện quy định mới chỉ cho phép công trình, dự án nghiên cứu, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược được áp dụng thủ tục đầu tư công khẩn cấp... Trong khi đó, dự thảo Luật Xây dựng (sửa đổi) đang được trình tại kỳ họp này đã mở rộng phạm vi cho phép áp dụng thủ tục đầu tư công khẩn cấp với các công trình cấp bách. Nếu quy định đó được Quốc hội thông qua, cần điều chỉnh để bảo đảm sự thống nhất giữa hai luật.

Trên cơ sở đó, các ý kiến đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát toàn diện, bảo đảm thể chế hóa đầy đủ tinh thần của Nghị quyết 57 và Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi 2015), nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và khả thi trong tổ chức thực hiện.

Phát triển công nghiệp an ninh, hướng tới tự chủ công nghệ quốc gia

ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng

ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng

Nhất trí với Tờ trình của Chính phủ, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) cho rằng việc sửa đổi luật trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực biến động nhanh, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và thách thức an ninh mạng, là hết sức cấp thiết.

Đại biểu dẫn Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12.6.2025 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược quốc gia, trong đó xác định rõ các lĩnh vực trọng yếu như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, điện toán lượng tử, dữ liệu lớn, Blockchain và an ninh mạng. Đây là những công nghệ nền tảng, phù hợp với định hướng chiến lược phát triển của Việt Nam trong giai đoạn tới… Do đó, các nội dung quy định tại điểm a khoản 2 Điều 45a của dự thảo luật là xác đáng và cần được biên soạn, nhóm lại cho tương thích với danh mục nêu trong Quyết định 1131.

Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh cũng đề nghị, làm rõ khái niệm “an ninh sinh học”, coi đây là tổng hợp các biện pháp, chính sách nhằm ngăn chặn việc sử dụng sai mục đích các tác nhân sinh học, độc tố hoặc thông tin liên quan, tránh gây hại đến sức khỏe cộng đồng, kinh tế quốc gia và môi trường. Trong bối cảnh hiện nay, an ninh sinh học cần được xem là một trụ cột của an ninh quốc gia phi truyền thống.

Đối với điểm b khoản 2 Điều 45a về “làm chủ công nghệ chiến lược, công nghệ nền”, đại biểu phân tích, cần xác định rõ mức độ của từng giai đoạn: nội địa hóa, giải mã, làm chủ và tự chủ công nghệ. Nếu không làm rõ, quy định sẽ thiếu cụ thể, dễ bị hiểu sai trong quá trình triển khai.

Toàn cảnh phiên thảo luận tổ. Ảnh: HP

Toàn cảnh phiên thảo luận tổ. Ảnh: HP

Theo đại biểu, nội địa hóa công nghệ là giai đoạn đầu tiên, nhằm giảm chi phí và tăng tốc độ cung ứng bằng việc chuyển sản xuất các cấu phần đơn giản về trong nước. Giai đoạn tiếp theo là giải mã công nghệ, nơi các nhà khoa học, kỹ sư phân tích, học hỏi để nắm được bí quyết kỹ thuật, đặt nền móng cho việc cải tiến. Khi đạt đến mức làm chủ công nghệ, Việt Nam không chỉ có khả năng sản xuất mà còn có thể sáng tạo, tích hợp công nghệ vào các hệ thống khác, tạo ra những sản phẩm “Make in Vietnam”.

Theo đại biểu, tự chủ công nghệ là giai đoạn cao nhất, khi quốc gia có thể độc lập hoàn toàn trong chuỗi Nghiên cứu – Thiết kế – Chế tạo – Ứng dụng – Hậu cần kỹ thuật… “Đây chính là nền tảng bảo đảm an ninh quốc gia trong mọi tình huống, giúp Việt Nam không bị tác động bởi các yếu tố chính trị hay cấm vận quốc tế”, đại biểu nhấn mạnh.

Các ý kiến tại tổ thảo luận cũng thống nhất rằng, trong bối cảnh quốc tế và khu vực phức tạp, Đảng và Nhà nước luôn kiên định quan điểm “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”, coi việc giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bình yên cho Nhân dân là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Từ khi Nghị quyết về phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh được ban hành, ngành đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần củng cố sức mạnh nội sinh, tăng cường tiềm lực và khả năng phòng vệ của đất nước.

Các đại biểu bày tỏ niềm tự hào trước những sản phẩm công nghiệp quốc phòng “Make in Vietnam” được giới thiệu nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, cho thấy những bước tiến lớn về tự chủ, sáng tạo và năng lực sản xuất… Thực tiễn từ các chuyến công tác, tham quan tại các cơ sở nghiên cứu, sản xuất quốc phòng cho thấy: năng lực tự cường của đất nước đang ngày càng được củng cố.

Các cường quốc trên thế giới đều coi công nghiệp quốc phòng là nền tảng cho sự tự chủ quốc gia và là nguồn lực kinh tế to lớn. Khi công nghiệp quốc phòng phát triển vững mạnh, quốc gia sẽ tiết kiệm được nguồn lực, nâng cao năng lực răn đe và chủ động ứng phó với mọi biến động toàn cầu… Các đại biểu nhấn mạnh, hiện đại hóa công nghiệp quốc phòng, an ninh không chỉ phục vụ bảo vệ chủ quyền, mà còn góp phần duy trì ổn định chính trị, an ninh và trật tự xã hội, củng cố “sức khỏe” quốc gia trước mọi thách thức.

ĐBQH Dương Khắc Mai (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng

ĐBQH Dương Khắc Mai (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng

Đại biểu Dương Khắc Mai (Lâm Đồng) bày tỏ hoàn toàn tán thành với việc sửa đổi, bổ sung các quy định trong dự thảo luật, trong đó có nội dung tách riêng Quỹ Công nghiệp quốc phòng và Quỹ Đầu tư phát triển công nghiệp an ninh... Đại biểu cho rằng, sự tách bạch này không phải là lập thêm quỹ mới, mà nhằm giúp Bộ Quốc phòng và Bộ Công an chủ động, linh hoạt hơn trong quản lý, điều hành theo chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm rõ trách nhiệm và phù hợp thực tiễn.

Hoàn thiện Luật Điều ước quốc tế, nâng cao hiệu lực thực thi, giám sát

Đối với dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điều ước quốc tế, đại biểu Hoàng Minh Hiếu (Nghệ An) tập trung phân tích 2 nhóm vấn đề chính: quy định tại Điều 72a và một số nội dung kỹ thuật trong dự thảo.

Theo đại biểu, nếu xác định đây là thẩm quyền của Chủ tịch nước, cần quy định rõ theo hướng: khi Chủ tịch nước thấy cần thiết, có thể quyết định thực hiện quyền của mình mà không cần liệt kê cụ thể từng trường hợp. Quy định như vậy sẽ bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp với vị trí, vai trò và trách nhiệm của Chủ tịch nước trong quan hệ đối ngoại và ký kết điều ước quốc tế. Nếu vẫn muốn làm rõ các trường hợp đặc biệt cần có quyết định của Chủ tịch nước, phần mở đầu của Điều 72a nên nêu rõ tiêu chí xác định để bảo đảm minh bạch và khả thi.

ĐBQH Hoàng Minh Hiếu (Nghệ An) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng

ĐBQH Hoàng Minh Hiếu (Nghệ An) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng

Về vấn đề kỹ thuật, đại biểu đề nghị chỉ nên quy định “ngày làm việc” đối với thời hạn dưới 7 ngày, còn với thời hạn từ 7 ngày trở lên thì giữ nguyên là “ngày”, nhằm bảo đảm tính linh hoạt và thuận lợi trong áp dụng.

Liên quan đến điều khoản chuyển tiếp, đại biểu cho rằng: dự thảo Luật sửa đổi đã rút gọn nhiều thủ tục, tạo thuận lợi hơn cho quá trình đàm phán, ký kết điều ước quốc tế, do đó cần bổ sung cơ chế cho phép cơ quan chủ trì được quyền áp dụng quy trình của luật mới nếu phù hợp. Khoảng thời gian từ khi Quốc hội thông qua đến khi luật có hiệu lực là rất ngắn, nên việc áp dụng sớm quy định mới sẽ giúp các cơ quan tận dụng được những quy trình hiệu quả, tránh chồng chéo pháp lý.

Đại biểu cũng nhấn mạnh việc cần tăng cường tổ chức thực hiện và giám sát quá trình thực thi điều ước quốc tế. Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, song việc triển khai còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp chưa tận dụng được ưu đãi và cơ hội. Vì vậy, cần có cơ chế để Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội tăng cường giám sát, yêu cầu báo cáo định kỳ kết quả thực hiện.

ĐBQH Dương Khắc Mai (Lâm Đồng) điều hành nội dung phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng

ĐBQH Dương Khắc Mai (Lâm Đồng) điều hành nội dung phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng

Đại biểu dẫn kinh nghiệm từ thời điểm thực hiện Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), khi Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội tổ chức giám sát thường niên, yêu cầu các bộ, ngành báo cáo kết quả triển khai, góp phần tạo chuyển biến tích cực trong thực hiện cam kết quốc tế.

Từ thực tiễn đó, một số ý kiến cũng đề nghị bổ sung quy định tăng cường trách nhiệm, cơ chế phối hợp và giám sát trong quá trình thực thi điều ước quốc tế, coi đây là yếu tố quan trọng bảo đảm hiệu lực của luật và uy tín quốc gia trong bối cảnh hội nhập sâu rộng.

Diệp Anh

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/tang-cuong-tiem-luc-quoc-phong-an-ninh-va-nang-cao-hieu-luc-thuc-thi-dieu-uoc-quoc-te-10393811.html