Tăng liên kết để công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vươn ra biển lớn

Để ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam tham gia sâu hơn, nhiều hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, trong thời gian tới cần thúc đẩy tăng cường liên kết, nâng cao sự vững chắc trong chuỗi cung ứng cho những ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam. Bên cạnh đó, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật làm nền tảng, tạo động lực phát triển công nghiệp.

Nguồn: Bộ Công thương. Đồ họa: Văn Chung

Nguồn: Bộ Công thương. Đồ họa: Văn Chung

Nhiều hạn chế cần khắc phục

Chỉ ra những hạn chế của doanh nghiệp (DN) công nghiệp hỗ trợ Việt Nam TS. Trần Thị Mai Thành, Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội chia sẻ, hiện khả năng tham gia cung ứng đầu vào cho DN FDI của DN nội địa Việt Nam rất yếu, đặc biệt cung ứng cho các tập đoàn lớn, không thể hiện được lợi thế cạnh tranh.

Mới có 30% doanh nghiệp tham gia

Số liệu mới cập nhật của Bộ Công thương cho thấy, hiện cả nước có khoảng 5.000 DN chế biến tham gia cung cấp linh kiện phụ tùng cho nhóm ngành hàng ô tô, cơ khí. Trong đó, 70% DN tham gia cung cấp cho các nhà sản xuất trong nước và 8% cung cấp cho nhà xuất khẩu và 17% là tham gia cung cấp cho cả hai. Như vậy, mới có khoảng 30% DN công nghiệp hỗ trợ Việt Nam tham gia được vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.

“Trong khi 90% DN FDI tại các nước như Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan sử dụng nguồn đầu vào trong nước thì ở Việt Nam con số này chỉ khoảng 60%. Bên cạnh đó, có 30% các DN FDI hoàn toàn xuất khẩu, không cung cấp sản phẩm cho thị trường trong nước vì thế không có bất kỳ cơ sở nào để hình thành liên kết chuỗi giá trị trong nước” - TS. Trần Thị Mai Thành phát biểu.

Phân tích thực trạng này, bà Đỗ Thị Thúy Hương - Phó Chủ tịch Hiệp hội công nghiệp hỗ trợ Việt Nam cho biết, ngoài xuất phát điểm thì phải kể tới đặc thù của ngành công nghiệp này là ngành yêu cầu tập trung vốn, công nghệ. Đây lại là hai điểm yếu của DN Việt Nam, do DN vừa và nhỏ, hạn chế về nguồn lực. Vì thế, năng lực phát triển và đáp ứng yêu cầu trong chuỗi giá trị toàn cầu là hạn chế.

Mặc dù môi trường đầu tư đã được cải thiện nhiều song vẫn còn những điểm nghẽn cần tiếp tục cải tiến. Hạ tầng vẫn chưa tương xứng, gây ra sự quan ngại cho các doanh nghiệp khi đầu tư vào Việt Nam. Thêm nữa, năng lực của các DN còn hạn chế. Hiện nay, số lượng DN Việt Nam tham gia được vào chuỗi cung ứng của các "ông lớn" vẫn chưa nhiều. Điểm nghẽn lớn nhất theo các DN FDI đang hoạt động tại Việt Nam là họ chưa hài lòng về chất lượng cũng như năng lực của các nhà cung cấp nội địa.

Thời gian vừa qua, các bộ, ngành, địa phương đã nỗ lực trong việc kết nối các DN công nghiệp hỗ trợ trong nước với các tập đoàn đa quốc gia và bước đầu đạt được kết quả khả quan, song ngành công nghiệp hỗ trợ vẫn còn hạn chế, vẫn đang nằm ở trong phân khúc giá trị gia tăng rất thấp trong chuỗi cung ứng.

Liên kết là con đường ngắn nhất

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Theo các chuyên gia kinh tế, có một thực tế, những chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu đều được dẫn dắt bằng những tập đoàn đa quốc gia, DN nào đi sau muốn nhập cuộc phải tham gia vào chuỗi này. Vì vậy, con đường ngắn nhất để DN Việt Nam tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu chính là liên kết với các công ty đa quốc gia. Việc liên kết giữa DN Việt Nam với các công ty đa quốc gia được cho là con đường ngắn nhất để DN công nghiệp hỗ trợ nội tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ở góc độ cơ quan hoạch định chính sách, ông Phạm Tuấn Anh - Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp, (Bộ Công thương) cũng nhìn nhận, DN công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn khó “đặt chân” vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Để ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam tham gia sâu hơn, nhiều hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, trong thời gian tới cần thúc đẩy tăng cường liên kết, nâng cao sự vững chắc trong chuỗi cung ứng cho những ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam như dệt may, da giày, điện tử… Cùng với đó, cần phải hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật làm nền tảng, tạo động lực phát triển công nghiệp.

Trước đó, năm 2015 Chính phủ đã ban hành Nghị định 111/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ và Nghị định chính thức có hiệu lực từ 1/1/2016 (Nghị định 111). Vào thời điểm đó số lượng DN công nghiệp hỗ trợ chỉ có hơn 300 DN nhưng sau 5 năm đã có trên 1.000 DN, dù con số này còn khiêm tốn so với các nước song cũng cho thấy tốc độ tăng trưởng về mở rộng sản xuất, cũng như sức phát triển của DN rất lớn.

Gần đây, Bộ Công thương đã có tờ trình gửi Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà về việc tiếp thu các ý kiến với dự thảo sửa đổi Nghị định số 111 với nhiều chính sách ưu đãi mới được đề xuất. Với khoảng 5.000 DN công nghiệp hỗ trợ hiện nay, Bộ Công thương đề xuất, DN có dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc danh mục sản phẩm ưu tiên phát triển sẽ được hưởng các ưu đãi, gồm ưu đãi về thuế thu nhập DN. Dự thảo xây dựng nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ như: Xúc tiến thu hút đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, kết nối hỗ trợ DN trở thành nhà cung ứng sản phẩm; hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực; hỗ trợ nghiên cứu phát triển, sản xuất thử nghiệm, ứng dụng, chuyển giao và đổi mới công nghệ...

Với những thay đổi của chính sách cụ thể nêu trên, nhiều địa phương, cộng đồng DN kỳ vọng chính sách ưu đãi mới sẽ tạo “cú hích” cho DN đổi mới sáng tạo, tiếp cận nguồn vốn, nâng cao năng lực cạnh tranh... Đồng thời, với cơ chế của Nhà nước mở ra, DN cũng cần thay đổi tư duy, hướng tiếp cận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa chuyển dịch từ phát triển nền công nghiệp phụ thuộc gia công, lắp ráp sang chủ động, sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh. Tăng cường liên kết giữa DN trong nước với khu vực FDI và thị trường toàn cầu nhằm tận dụng tốt cơ hội từ các hiệp định tự do thương mại, đưa DN công nghiệp hỗ trợ trong nước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Cần hỗ trợ nhiều hơn cho doanh nghiệp nội

Theo bà Đỗ Thị Thúy Hương - Phó Chủ tịch Hiệp hội công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, khó khăn của các DN nhỏ và vừa Việt Nam khi tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu là không đáp ứng được giá theo yêu cầu do chi phí sản xuất cao. Bên cạnh đó, phần lớn DN có quy mô nhỏ nên chỉ đáp ứng được đơn hàng nhỏ, còn với đơn hàng lớn khó có khả năng đáp ứng đúng hạn và thiếu các công đoạn gia công có chất lượng… Ngoài ra, nhiều DN còn yếu về kênh phân phối, năng lực thương mại hạn chế, thiếu thông tin về xu thế, công nghệ, thị trường, sản phẩm, đối thủ cạnh tranh hay nhà cung cấp,...

Bà Đỗ Thị Thúy Hương bày tỏ, DN rất cần hỗ trợ của Nhà nước, trước hết ở việc đào tạo nguồn nhân lực. Hiện các DN rất khó tuyển dụng lao động chất lượng cao trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo do đây là ngành khắc nghiệt khi đòi hỏi trình độ, kiến thức cao, trong khi thu nhập chưa chắc đã hấp dẫn so với các lĩnh vực khác.

Theo đó, Hiệp hội công nghiệp hỗ trợ Việt Nam kiến nghị, trong chính sách nhằm đảm bảo phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2030, muốn phát triển bền vững và có sức tăng trưởng, tạo giá trị gia tăng ngày càng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu, vị thế DN Việt Nam được nâng lên, mong rằng, Chính phủ tiếp tục chính sách thu hút FDI có chọn lọc. Đồng thời, có điều kiện cơ bản để các FDI có sự lan tỏa, tạo nhiều cơ hội cho DN Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng ở vị trí công nghệ cao hơn, ở những mắt xích then chốt hơn./.

Song Linh

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/tang-lien-ket-de-cong-nghiep-ho-tro-viet-nam-vuon-ra-bien-lon-151279.html