Tăng thời hạn cai nghiện, nâng cao hiệu quả phòng, chống ma túy
Theo các đại biểu Quốc hội, cùng với biện pháp tăng thời gian cai nghiện, cần tăng đầu tư cho cơ sở cai nghiện; đồng thời quy định rõ trách nhiệm của các tỉnh, thành phố trong việc bố trí các cơ sở cai nghiện.
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
Các đại biểu Quốc đánh giá cao nỗ lực của Ban soạn thảo trong việc hoàn thiện khung pháp lý trước tình hình tội phạm ma túy ngày càng tinh vi và mang tính xuyên quốc gia. Đồng thời cho rằng việc sửa đổi luật là cần thiết để khắc phục những bất cập, nâng cao hiệu quả phòng ngừa, cai nghiện, quản lý người sử dụng ma túy và tăng cường hợp tác quốc tế.
Tăng thời hạn cai nghiện là cần thiết
Một trong những điểm mới của dự thảo Luật là quy định thời hạn cai nghiện lần đầu là 24 tháng, lần thứ hai trở lên là 36 tháng, thay vì khung thời gian từ 6 tháng đến 12 tháng hay 12 đến 24 tháng như luật hiện hành.
Góp ý vào nội dung này, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách thành phố Hải Phòng) cho rằng quy định này là đúng đắn và cần thiết bởi những lý do sau:

Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách thành phố Hải Phòng). (Ảnh: DUY LINH)
Một là, thời hạn 24 tháng đối với lần đầu và 36 tháng đối với lần thứ hai là phù hợp với quy trình cai nghiện đầy đủ, bao gồm tiếp nhận, phân loại, điều trị, cắt cơn, giải độc, điều trị rối loạn tâm thần, giáo dục, tư vấn, phục hồi hành vi, lao động trị liệu và giai đoạn chuẩn bị tái hòa nhập. Đây là quy trình mang tính khoa học, không thể thực hiện trong thời gian ngắn mà vẫn đảm bảo hiệu quả.
Hai là, thực tiễn cho thấy các mô hình cai nghiện ngắn hạn ở nhiều địa phương, thậm chí là chỉ 3 đến 6 tháng đều dẫn tới tỷ lệ tái nghiện rất cao. Người nghiện thường chưa kịp ổn định thể chất thì những rối loạn tâm lý, hành vi vẫn còn và đều dẫn đến việc dễ dàng quay lại sử dụng ma túy.
Ba là, ma túy tổng hợp, đặc biệt là các chất kích thích ATS hiện chiếm hơn 70% trong các vụ việc, theo thống kê của các cơ quan chức năng, gây tổn thương não bộ lâu dài, đòi hỏi quá trình trị liệu và phục hồi dài hạn. Nếu chúng ta tiếp tục duy trì thời gian cai nghiện ngắn, pháp luật sẽ đứng sau thực tiễn, không đủ công cụ để bảo vệ chính người nghiện và cộng đồng.
“Vì vậy, quy định tăng thời hạn cai nghiện là cần thiết, hợp lý và phù hợp với bằng chứng khoa học, góp phần giảm tỷ lệ tái nghiện và cải thiện chất lượng cai nghiện”, đại biểu nhấn mạnh.
Tuy nhiên, theo đại biểu, cùng với biện pháp tăng thời gian cai nghiện, cần tăng đầu tư cho cơ sở cai nghiện như cơ sở vật chất, đội ngũ tư vấn tâm lý, bác sĩ chuyên khoa, chương trình phục hồi hành vi để bảo đảm người cai nghiện không chỉ được giữ lại lâu hơn mà thực sự được điều trị đúng phác đồ, đúng khoa học. Nếu không việc kéo dài thời gian rất dễ biến thành hình thức giam giữ kéo dài và không tạo ra hiệu quả thực chất.
Đồng thời, cần quy định rõ trách nhiệm của các tỉnh, thành phố, đặc biệt là với các địa phương có số người nghiện cao trong việc bố trí các cơ sở cai nghiện.
“Nếu không có mạng lưới cơ sở cai nghiện tương ứng thì quy định về thời hạn dài hơn sẽ rất khó triển khai. Việc cai nghiện bắt buộc không thay thế hoàn toàn các biện pháp xã hội khác”, đại biểu lưu ý.

Đại biểu Trần Thị Thu Phước (Đoàn Quảng Ngãi). (Ảnh: DUY LINH)
Từ góc độ thực tiễn, đại biểu Trần Thị Thu Phước (Đoàn Quảng Ngãi) bày tỏ đồng tình với quan điểm của đại biểu Việt Nga.
Đại biểu nêu thực tế cho thấy thời gian cai nghiện ngắn từ 6 tới 12 tháng thì hiệu quả cai nghiện rất thấp, tỷ lệ tái nghiện cao do chưa đủ thời gian để phục hồi não bộ, thay đổi hành vi và đào tạo nghề bài bản. Trong khi đó, quy định đủ 5 giai đoạn cai nghiện bắt buộc cần phải có thời gian đủ để cai nghiện, việc kéo dài thời gian tuy là tốn kém trước mắt nhưng sẽ chặn đứng nguồn cầu trong thời gian dài, giảm thiểu tội phạm phát sinh từ người nghiện, bảo đảm an ninh, trật tự, đây là chi phí đầu tư cho sự an toàn của xã hội.

Đại biểu Phạm Văn Hòa (Đoàn Đồng Tháp). (Ảnh: DUY LINH)
Đồng tình với việc tăng thời hạn cai nghiện ma túy, song đại biểu Phạm Văn Hòa (Đoàn Đồng Tháp) cho rằng đây chỉ là khung tối đa trong thời gian cai nghiện.
“Nếu xét thấy những đối tượng thật sự muốn cai nghiện thì có thể cho những đối tượng này về trước, đặc biệt là trẻ em từ 12 đến dưới 18 tuổi hay những người hoàn cảnh gia đình khó khăn, phụ nữ cho bú..., tôi nghĩ những đối tượng này là cần thiết”, đại biểu chia sẻ.
Theo đó, đại biểu Hòa đề nghị Bộ Công an nghiên cứu quy định thời gian cai nghiện linh hoạt phù hợp với các đối tượng khác nhau, không nên quy định tất cả đối tượng đều phải cai nghiện 24 đến 36 tháng.
Mục tiêu vì một xã hội không ma túy
Phát biểu, giải trình làm rõ một số nội dung đại biểu quan tâm, Bộ trưởng Công an Lương Tam Quang cho biết, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ nghiên cứu tiếp thu đầy đủ tất cả các ý kiến phát biểu của các vị đại biểu Quốc hội, báo cáo Chính phủ, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của Quốc hội để chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật bảo đảm khoa học, chặt chẽ và khả thi, đồng bộ với hệ thống pháp luật và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Bộ trưởng Công an Lương Tam Quang phát biểu, giải trình làm rõ một số nội dung đại biểu quan tâm, (Ảnh: DUY LINH)
Trước ý kiến của đại biểu Quốc hội đề nghị nghiên cứu quy định linh hoạt hơn về thời hạn cai nghiện ma túy đối với mức độ nghiện và đối với từng đối tượng nghiện, giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết quy định để phù hợp với từng nhóm đối tượng, Bộ trưởng Công an nêu rõ: “Chúng tôi đề nghị giữ nguyên như tại dự thảo Luật đối với thời hạn cai nghiện từ lần đầu là 24 tháng, đối với người cai nghiện ma túy lần thứ hai trở lên là 36 tháng để mọi người nghiện ma túy đều được áp dụng đầy đủ các giai đoạn trong quy trình cai nghiện ma túy nhằm nâng cao hiệu quả của công tác cai nghiện ma túy, khắc phục tình trạng tái nghiện”.
Bộ trưởng thông tin thêm: Luật năm 2021 quy định mức thời hạn tối thiểu, mức tối đa, tuy nhiên thực tiễn thi hành không có căn cứ xác định thế nào là tối thiểu hoặc tối đa, dẫn đến việc áp dụng không thống nhất và tùy nghi trong thực hiện. Mặt khác, việc xác định tình trạng nghiện ma túy thì cơ quan y tế chỉ xác định được tình trạng nghiện hoặc không nghiện, không xác định được mức độ nghiện nên cũng không có căn cứ để xác định thời gian cai nghiện phù hợp với từng đối tượng.
Ngoài ra, Bộ trưởng cho hay, xu thế hiện nay người nghiện ma túy đang chuyển dần sang sử dụng các loại ma túy tổng hợp, biểu hiện trạng thái nghiện rất đa dạng và không điển hình, nhiều đối tượng sử dụng các loại ma túy pha trộn dẫn đến tình trạng ngáo đá và loạn thần có thể thực hiện các hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Thực tiễn trong thời gian vừa qua đã có những đối tượng thực hiện những hành vi rất dã man, đây là những đối tượng trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm này là những đối tượng nghiện dạng ngáo đá và loạn thần.
Theo Bộ trưởng, nhiều đại biểu đề nghị bổ sung quy định áp dụng biện pháp giám sát điện tử đối với người sử dụng trái phép chất ma túy, người cai nghiện tại cộng đồng, người cai nghiện bằng thuốc thay thế, người bị quản lý sau cai nghiện. Trên cơ sở nghiên cứu, nếu dự thảo Luật quy định về đối tượng và thẩm quyền áp dụng, thì Chính phủ sẽ quy định chi tiết về nội dung này.
“ Mục tiêu xây dựng Luật này là chúng tôi mong muốn một xã hội không có ma túy và cũng không có người nghiện ma túy và nếu nghiện thì cai nghiện có hiệu quả và không tái nghiện để cho xã hội an ninh, an toàn”, Bộ trưởng nhấn mạnh.













