Tăng trưởng 10%: Mục tiêu và phép thử cải cách
Mục tiêu tăng trưởng GDP 10% trong năm 2026 là tham vọng lớn. Nó có thể vượt xa dự báo quốc tế, nhưng đồng thời cũng tạo sức ép buộc Việt Nam phải hành động quyết liệt và cải cách sâu rộng hơn.

Mục tiêu tăng trưởng GDP 10% trong năm 2026 là tham vọng lớn. Ảnh: KTSG
Bộ Tài chính đang xây dựng dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026, đặt mục tiêu GDP tăng 10%, thu nhập bình quân đầu người 5.400-5.500 đô la Mỹ, lạm phát khoảng 5% và tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm thêm 1-1,5 điểm phần trăm. Đây là năm đầu của kế hoạch năm năm 2026-2030, cũng là giai đoạn được kỳ vọng mở ra một quỹ đạo phát triển mới. Thủ tướng đã yêu cầu kế hoạch năm 2026 phải bảo đảm mục tiêu tăng trưởng hai con số, với giải pháp đồng bộ và có trọng tâm.
Tuy nhiên, mục tiêu này cao hơn rất nhiều so với các dự báo quốc tế. Ngân hàng Thế giới (WB) dự đoán tăng trưởng GDP Việt Nam sẽ giảm tốc còn 6,1% trong năm 2026 trước khi phục hồi lên 6,5% vào năm 2027. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo 6,3% cho năm 2025 và 6% cho năm 2026. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra mức 6,5% cho năm 2025 và chỉ 5,6% cho năm 2026. Ngân hàng UOB, sau khi nâng dự báo năm 2025 lên 7,5%, vẫn giữ mức 7% cho năm 2026. Khoảng cách giữa con số 10% và dự báo 6-7% thể hiện sự khác biệt giữa khát vọng trong nước và sự thận trọng của bên ngoài.
Cơ sở để đặt mục tiêu cao chính là kết quả của năm 2025. Bộ Tài chính cho biết, nền kinh tế dự kiến hoàn thành 15/15 chỉ tiêu, trong đó GDP đạt tối thiểu 8%, thu nhập bình quân đầu người chạm mốc 5.000 đô la Mỹ, đưa Việt Nam bước vào nhóm thu nhập trung bình cao. Lạm phát giữ ở mức 4%, thấp hơn nhiều so với áp lực giá cả toàn cầu. Tiêu dùng nội địa phục hồi, xuất khẩu tăng trở lại, đầu tư công đẩy nhanh tiến độ, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục đổ vào công nghệ cao - tất cả được xem như bệ đỡ để bước sang năm 2026.
Mục tiêu tăng trưởng hai con số phản ánh khát vọng tăng tốc và hiện đại hóa, song chỉ có ý nghĩa khi đi kèm hành động quyết liệt: giữ ổn định vĩ mô, cải thiện thể chế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát huy vai trò của khu vực tư nhân.
Không chỉ dừng ở các chỉ tiêu kinh tế, những cải cách về tổ chức bộ máy, pháp luật, chuyển đổi số, phát triển kinh tế tư nhân và hội nhập quốc tế cũng đang tạo cơ hội để Việt Nam bước vào giai đoạn tăng tốc. Đây là nền tảng để kỳ vọng nhiều hơn ở năm 2026.
Song bức tranh không chỉ có gam màu sáng. Kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định: thương mại chưa ổn định, địa chính trị phức tạp, lạm phát chưa hạ nhiệt, lãi suất cao. Ở trong nước, sự phụ thuộc vào khu vực FDI khiến tăng trưởng dễ bị tổn thương; doanh nghiệp nội địa vẫn yếu về công nghệ và cạnh tranh; đầu tư công còn chậm giải ngân; thể chế chưa đủ mạnh để khai thông nguồn lực. Những điểm nghẽn này cho thấy tăng trưởng hai chữ số là không dễ dàng.
Chính vì vậy, mục tiêu 10% có thể gây tranh luận, thậm chí bị coi là “quá sức”. Nhưng muốn thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, không thể chỉ đi bằng những bước nhỏ. Một mục tiêu cao sẽ buộc cả bộ máy chính sách và cộng đồng doanh nghiệp phải đổi mới, sáng tạo và dám chấp nhận cải cách sâu rộng hơn. Vấn đề không phải là có đạt được 10% hay không, mà là Việt Nam sẽ làm gì để tiến tới con số đó.
Tại hội nghị tham vấn với Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội mới đây, các chuyên gia đều nhấn mạnh: tăng trưởng hai con số chỉ có thể đạt được nhờ cải cách căn bản, chứ không phải các gói kích thích ngắn hạn.
Ông Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, cho rằng ưu tiên số một là kiểm soát lạm phát, giữ ổn định vĩ mô. Theo ông, nếu không có cú sốc từ bên ngoài thì không nên nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa để chạy theo con số ngắn hạn. Ngược lại, cần thắt chặt chính sách một cách hợp lý, thu hẹp tối đa dư địa chạy theo tăng trưởng ngắn hạn để tạo áp lực buộc các tác nhân kinh tế tìm kiếm động lực dài hạn - từ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo đến nâng cao năng suất và sức cạnh tranh. Ông cũng nhấn mạnh vai trò đột phá của thể chế, với việc thực thi triệt để Nghị quyết 66 và 68 để khôi phục niềm tin thị trường, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo và phát triển kinh tế tư nhân.
Cùng quan điểm, PGS.TS. Vũ Sỹ Cường, Học viện Tài chính, cho rằng tăng trưởng cao quan trọng, nhưng ổn định dài hạn còn quan trọng hơn. Chính sách tài khóa và tiền tệ cần linh hoạt trong ngắn hạn, song phải tuân thủ kỷ luật ngân sách và tài chính trong dài hạn. Ông lưu ý, tăng trưởng bền vững chỉ có thể đến từ cải thiện năng suất và hiệu quả, thay vì dựa vào các chính sách ngắn hạn.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Đậu Anh Tuấn, Phó tổng thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho rằng sự thiếu ổn định và thiếu nhất quán của chính sách là rào cản lớn. Quy định thay đổi nhanh, ít đánh giá tác động, khiến doanh nghiệp khó lập kế hoạch dài hạn. Giải pháp cấp bách là tiếp tục cắt giảm thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, minh bạch hóa quy trình, loại bỏ chi phí không chính thức. Chính sách cần ổn định và dự báo được, trong khi cơ quan thực thi phải nâng cao trách nhiệm giải trình để tạo môi trường công bằng.
Nhìn về phía trước, Việt Nam có nền tảng để kỳ vọng nhưng cũng đầy thách thức. Mục tiêu tăng trưởng hai con số phản ánh khát vọng tăng tốc và hiện đại hóa, song chỉ có ý nghĩa khi đi kèm hành động quyết liệt: giữ ổn định vĩ mô, cải thiện thể chế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát huy vai trò của khu vực tư nhân.
Năm 2026, dù có đạt 10% hay không, vẫn sẽ là bài kiểm tra quan trọng về năng lực cải cách và sức chống chịu của nền kinh tế. Trong một giai đoạn nhiều bất định, tham vọng có thể quan trọng không kém kết quả. Bởi khát vọng lớn, nếu đi cùng quyết tâm cải cách, sẽ là động lực đưa Việt Nam tiến gần hơn đến mục tiêu phát triển bền vững và thịnh vượng.
Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/tang-truong-10-muc-tieu-va-phep-thu-cai-cach/