Tạo không gian, nguồn lực để phát triển đại học số
Phát biểu tại Hội thảo quốc gia 'Chuyển đổi số trong giáo dục mở thúc đẩy học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập' chiều 13.5, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Phan Tâm cho rằng, để giáo dục mở, đại học số thực sự đi vào cuộc sống, thể chế là quan trọng và phải đi trước một bước để tạo ra không gian, nguồn lực phát triển.
Nhận định rõ rào cản, lựa chọn chiến lược thích hợp
Đại học số là mô hình giáo dục đại học mới, tích hợp triệt để công nghệ số vào mọi hoạt động như đào tạo, nghiên cứu, quản trị... Đây không chỉ là mô hình số hóa hay ứng dụng công nghệ đơn thuần, mà là sự chuyển đổi toàn diện về tổ chức, vận hành, mô hình kinh doanh và văn hóa tại các trường đại học nhằm tối đa hóa lợi ích từ công nghệ số. Mô hình này đòi hỏi sự thay đổi sâu rộng trong tư duy của các bên liên quan, khuyến khích hình thành hệ sinh thái số tích hợp, liên kết giữa các trường.
Theo nhóm nghiên cứu Nguyễn Mai Hương, Ngô Văn Đức (Trường Đại học Mở Hà Nội), thành công của quá trình chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục đại học phụ thuộc lớn vào việc các nhà hoạch định chính sách có xác định, nhận diện và hiểu rõ những rào cản, thách thức tiềm tàng hay không, từ đó đưa ra các chiến lược và giải pháp phù hợp để vượt qua chúng. Nếu thiếu nhận thức về các trở ngại, các trường đại học sẽ gặp khó khăn trong việc xác định mục tiêu và lựa chọn chiến lược thích hợp cho quá trình chuyển đổi số của mình.
Nhóm tác giả chỉ ra rằng, các rào cản ảnh hưởng đến việc áp dụng mô hình giáo dục đại học số chủ yếu do thiếu kinh phí và hạn chế về ngân sách, cũng như các vấn đề pháp lý. Các trường đại học có thể không có nguồn tài chính cần thiết để đầu tư vào công nghệ mới, nâng cấp cơ sở hạ tầng hiện có hoặc thuê nhân viên có trình độ để quản lý chuyển đổi số.
Cùng với đó, rủi ro an ninh mạng, bảo mật dữ liệu cá nhân, bảo mật dữ liệu của các cơ sở giáo dục đại học chẳng hạn như vi phạm dữ liệu, đánh cắp danh tính và tấn công lừa đảo, là vô cùng lớn đối với các trường đại học triển khai mô hình đại học số. Việc tuân thủ các tiêu chuẩn và quy định về bảo mật công nghệ thông tin là một vấn đề quan trọng, đặc biệt khi liên quan đến thông tin nhạy cảm của sinh viên và giảng viên.
Chưa kể rào cản quan trọng khác là thiếu sự lãnh đạo cho quá trình thay đổi. Chuyển đổi số đòi hỏi sự lãnh đạo và quản trị mạnh mẽ để bảo đảm các sáng kiến phù hợp với mục tiêu chiến lược chung của trường đại học. Điều này bao gồm việc đặt ra mục tiêu rõ ràng, thiết lập trách nhiệm giải trình và cung cấp nguồn lực cũng như hỗ trợ cho các sáng kiến số…
Đề xuất xây dựng chính sách quốc gia về học liệu mở
Tại Việt Nam, việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo đã được chú trọng và đẩy mạnh ở các cấp bậc khác nhau. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25.1.2022 phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030”. Trên cơ sở đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 - 2025. Đối với các cơ sở giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành bộ chỉ số, tiêu chí đánh giá chuyển đổi số cơ sở giáo dục đại học.
Theo mục tiêu đến năm 2030 được xác định trong Đề án ban hành kèm theo Quyết định số 131/QĐ-TTg, “giáo dục đại học số trở thành một trụ cột của hệ thống giáo dục đại học, chiếm tỷ trọng 30% quy mô; 100% cơ sở giáo dục đại học cung cấp các chương trình đào tạo (cấp bằng) hình thức từ xa, trực tuyến”. Trên cơ sở pháp lý, cùng với xu hướng phát triển và ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin vào quá trình giáo dục và đào tạo cũng như sức ép về lợi thế cạnh tranh nội tại giữa các trường trong nước và với các trường nước ngoài có các chương trình đào tạo trực tuyến uy tín, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hệ sinh thái giáo dục và đào tạo đã trở thành bắt buộc hơn là một lựa chọn đối với các trường đại học.
Ông Nguyễn Mậu Vũ, Trung tâm Nghiên cứu và Đổi mới Giáo dục, Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh, cho rằng, trước những thách thức đặt ra cho nền giáo dục đại học số hiện nay, các cơ sở giáo dục Việt Nam phải nhanh chóng thích ứng, biến khó khăn thành cơ hội để xây dựng một nền giáo dục học tập thông minh, thích ứng, tạo cơ hội học tập suốt đời toàn dân.
Ông Vũ đề xuất việc xây dựng một chính sách quốc gia về học liệu mở. Trong đó, quy định tính pháp lý về phát triển học liệu mở, cũng như định hướng hợp tác chia sẻ nội dung trên cơ sở các nguồn học liệu mở có sẵn giữa các trường đại học. Từ đó tạo lập hệ sinh thái về nguồn học liệu mở cho các trường đại học ở Việt Nam, tiến tới hòa chung với hệ sinh thái toàn cầu. Có như vậy, giáo dục đại học số Việt Nam mới nhanh chóng tiếp cận kho tri thức khổng lồ, nhằm tạo điều kiện cho người học ở mọi cấp độ, mọi lứa tuổi phát huy tinh thần hiếu học và học tập suốt đời.
Từ kinh nghiệm xây dựng đại học số tại Trường Đại học Mở Hà Nội, ông Đặng Hải Đăng khuyến nghị, việc chuyển đổi số nói chung và đại học số nói riêng lấy con người làm trung tâm, trong đó các dữ liệu từ sinh viên, giảng viên, đối tác, các bên liên quan phải được thu thập và phân tích. Phải mô hình hóa hệ thống trục dữ liệu tổng thể của cơ sở giáo dục trước khi thực hiện các quyết định xây dựng các hệ thống quản lý tác nghiệp.