Tạo lập nguồn cung lao động hiện đại với chất lượng nhân lực cao

Để có việc làm bền vững, nhiệm vụ quan trọng nhất Việt Nam giai đoạn này là hiện đại hóa nguồn cung lao động; đồng thời chuyển dịch từ việc làm thu nhập thấp sang chất lượng cao.

Phân tích tình hình sự chuyển dịch lao động thời gian qua, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, Việt Nam hiện là nước tiếp nhận nguồn vốn FDI lớn thứ 3 trong khu vực và là một trong số ít nước ASEAN vẫn duy trì được tăng trưởng dòng vốn FDI ổn định qua nhiều năm. Điều này cần nguồn lao động chất lượng cao.

Ông Krishnakanth Kodukula, Tổng giám đốc Zamil Steel Buildings Việt Nam cho biết: Đầu tư vào Việt Nam từ những năm đầu đổi mới của nền kinh tế, đến nay sau 25 năm, Zamil Steel Buildings Việt Nam (ZSV) đã trở thành một trong những doanh nghiệp thiết kế, sản xuất và lắp dựng nhà thép tiền chế lớn nhất tại Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Công ty có đội ngũ hơn 1100 nhân viên và công nhân làm việc tại 2 nhà máy sản xuất hiện đại tại Việt Nam và 13 văn phòng đại diện tại 10 nước trong khu vực. Công ty đã cung cấp gần 7.000 dự án cho hàng nghìn khách hàng trên khắp Châu Á - Thái Bình Dương từ hai nhà máy tại Việt Nam. Trong vài thập kỷ tới đây, ngành công nghiệp nhà thép vẫn tiếp tục có những bước phát triển vượt bậc tại Việt Nam và Đông Nam Á.

Nhà máy sản xuất của Công ty Zamil Steel Buildings Việt Nam sử dụng công nghệ, kỹ thuật mới. Ảnh: TL

Nhà máy sản xuất của Công ty Zamil Steel Buildings Việt Nam sử dụng công nghệ, kỹ thuật mới. Ảnh: TL

“Ngày nay, các giải pháp số hóa và công nghiệp 4.0 đang chuyển đổi ngành công nghiệp sản xuất nói chung và ngành nhà thép tiền chế nói riêng, chúng tôi sẽ đầu tư hơn nữa vào việc phát triển các bộ công cụ kỹ thuật số, tự động hóa nhà máy và các tiến bộ công nghệ khác để cung cấp các sản phẩm và giải pháp chất lượng cao hơn, sáng tạo hơn cho khách hàng của mình. Để làm điều này, chúng tôi tập trung vào chất lượng, công nghệ, chuyển đổi số và đỏi hỏi đội ngũ nhân sự chất lượng cao, có tay nghề kỹ thuật đáp ứng xây dựng hạ tầng hiện đại không chỉ trong nước mà làm việc tại nước ngoài”, ông Krishnakanth Kodukula chia sẻ.

Trong khi đó, báo cáo thị trường IT (công nghệ thông tin) Việt Nam năm 2022 do TopDev (nền tảng tuyển dụng công nghệ thông tin lớn hàng đầu Việt Nam với hơn 550.000 thành viên) vừa phát hành cho biết, mức lương lập trình viên mới vào nghề dưới 2 năm kinh nghiệm dao động trong khoảng 350 - 565 USD mỗi tháng (tương đương 8,3-13,4 triệu đồng).

Sau 5 năm kinh nghiệm, mức lương của họ sẽ có thể đạt mức 1.410 - 2.230 USD (33,3 - 52,6 triệu đồng) mỗi tháng. Sau 10 năm, mức lương có thể từ 2.750 USD (65 triệu đồng) mỗi tháng trở lên. Tất cả dữ liệu tiền lương được khảo sát là tổng lương hàng tháng trước thuế và không bao gồm các lợi ích khác như làm thêm giờ, tiền thưởng.

Để đảm nhận được vị trí này, các nhà quản lý phải nắm vững các kỹ năng cơ bản vững chắc, xử lý các công việc quản lý, tối ưu hóa công nghệ, sản phẩm dựa trên công nghệ của công ty và điều chỉnh kịp thời với những thách thức bất ngờ, như COVID-19 trong thời gian qua.

TopDev ghi nhận, nhu cầu tuyển dụng nhân lực công nghệ thông tin Việt Nam năm nay tăng mạnh, với 175.370 vị trí tuyển dụng, tăng 36,2% so với năm 2021. Thiếu hụt nhân lực IT vẫn là bài toán nan giải. Mức lương và thưởng của ngành này đang tăng lên đáng kể, nhưng dự đoán từ năm 2022 - 2024, Việt Nam sẽ vẫn thiếu hụt 150.000 - 195.000 lập trình viên, kỹ sư hàng năm.

Theo dự báo của Bộ LĐTBXH, Việt Nam cần nguồn nhân lực chất lượng cao như lĩnh vực tài chính, công nghệ thông tin, logistics, kỹ sư xây dựng… Trong quá trình hội nhập, Việt Nam phải tuân thủ các tiêu chung của thế giới, bao gồm các tiêu chuẩn về lao động, tiêu chuẩn về quản trị thị trường lao động hiện đại theo chuẩn mực quốc tế. Nhất là khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra những vấn đề mới: Nhiều việc làm, kỹ năng cũ sẽ mất đi hoặc giảm mạnh, xuất hiện nhiều việc làm mới, kỹ năng mới; trí tuệ nhân tạo, robot, máy móc sẽ đóng vai trò ngày một lớn trong sản xuất và thay thế nhiều vị trí việc làm hiện tại.

So với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam là nước có tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp (quý II/2022 mới chỉ đạt 26,2%). Trong giai đoạn từ 2015 - 2020, có 66,7% công nhân lao động có trình độ trung học phổ thông; 80% công nhân lao động tại các doanh nghiệp được đào tạo nghề (chủ yếu là doanh nghiệp tự đào tạo), 43% công nhân lao động được đào tạo lại, bậc thợ từ 4 - 7 (có tay nghề cao) là 22,5%; 7,7% công nhân lao động học ngoại ngữ, 7,1% công nhân lao động học tin học.

“Nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đã bày tỏ lo ngại trước việc thiếu cục bộ lực lượng lao động có kỹ năng nghề để phục hồi và mở rộng sản xuất, kinh doanh, nhất là trong các ngành công nghiệp. Các doanh nghiệp FDI luôn luôn cần nguồn nhân lực chất lượng cao để ứng dụng công nghệ mới và năng suất lao động cao. Nguồn lực chất lượng cao nếu không được chú trọng cải thiện trong thời gian tới, Việt Nam sẽ mất dần sức hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài", ông Đào Ngọc Dung cho biết.

Việt Nam đang cần nhiều lao động kỹ năng nghề cao. Ảnh: TL

Việt Nam đang cần nhiều lao động kỹ năng nghề cao. Ảnh: TL

Nhằm thực hiện mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2030 về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho rằng, cần xây dựng, tạo lập được nguồn cung lao động hiện đại với chất lượng nhân lực cao. Nguồn cầu lao động hiện đại với chất lượng việc làm tốt hơn, bền vững hơn. Phương thức quản trị thị trường lao động hiện đại phù hợp với một thị trường lao động hiện đại và hành lang pháp lý thuận lợi.

“Nhiệm vụ chuyển dịch từ việc làm dễ bị tổn thương sang việc làm bền vững và được bảo vệ, từ việc làm có chất lượng thấp, thu nhập thấp sang việc làm có chất lượng cao. Mục tiêu đó là rất cấp thiết và cấp bách trong bối cảnh hiện nay”, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nhấn mạnh.

Nhằm phục hồi, ổn định thị trường lao động sau đại dịch COVID-19, khắc phục những hạn chế lớn và đưa thị trường lao động Việt Nam hội nhập vào thị trường quốc tế, Bộ trưởng LĐTBXH nêu ra các giải pháp ngắn hạn và dài hạn.

Về các giải pháp ngắn hạn, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung đánh giá cần tăng cường công tác thông tin truyền thông để khẳng định với các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong và ngoài nước theo tinh thần: Thị trường lao động Việt Nam minh bạch, hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục nghề nghiệp Việt Nam đủ điều kiện, khả năng để cung ứng nhân lực theo yêu cầu của các doanh nghiệp.

Bên cạnh đó là khẩn trương rà soát, đánh giá nhu cầu nhân lực theo từng ngành, lĩnh vực, từng vùng để kịp thời kết nối việc cung ứng nhân lực. Đặc biệt là đánh giá nhu cầu nhân lực của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam; Rà soát, đánh giá, sắp xếp tổ chức, đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

Theo Bộ trưởng LĐTBXH, cần chú trọng việc tổ chức thực hiện các biện pháp giải quyết nhu cầu thiếu nhân lực cục bộ, giảm sự mất cân đối cung - cầu lao động. Phát triển các hình thức giao dịch việc làm theo hướng hiện đại trên nền tảng công nghệ số, thu hút lao động tại chỗ, đào tạo, đào tạo lại, đào tạo thích ứng cho lực lượng lao động đang làm việc.

Về các giải pháp lâu dài, Bộ trưởng LĐTBXH nhấn mạnh việc hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động của các định chế trung gian của thị trường, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động. Nâng cao hiệu quả tổ chức, vận hành thị trường lao động.

Bên cạnh đó, Bộ LĐTBXH cho rằng cần thúc đẩy tạo việc làm bền vững, sử dụng lao động hiệu quả thông qua các chương trình, đề án, chính sách tín dụng hỗ trợ tạo việc làm, tham gia thị trường lao động, đặc biệt quan tâm đến các nhóm lao động đặc thù, lao động yếu thế.

Cùng với đó là nghiên cứu, rà soát, đánh giá năng lực hệ thống các cơ sở đào tạo, các kiến nghị và đóng góp ý kiến của yêu cầu của cộng đồng doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp FDI để kịp thời triển khai các giải pháp đào tạo, nâng cao năng lực kỹ năng nghề cho công nhân lao động, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.

Đồng thời, đẩy mạnh đào tạo nghề nghiệp cho người lao động cả trước – trong – sau quá trình tham gia thị trường lao động; cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, trình độ của lao động trong các doanh nghiệp, doanh nghiệp FDI, nhất là các ngành nghề khoa học - kỹ thuật - công nghệ và đào tạo các chuyên ngành mới trong chuyển đổi số như trí tuệ nhân tạo (AI), khoa học dữ liệu, dữ liệu lớn, IoT, chuỗi khối.

Đầu tư công tác dự báo cung – cầu cũng là một trong các giải pháp giúp phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động với nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động hiện đại, đồng bộ, có sự kết nối, chia sẻ với cơ sở dữ liệu dân cư, đăng ký doanh nghiệp, bảo hiểm. Việt Nam phổ biến các hệ thống chứng nhận nghề, kỹ năng theo tiêu chuẩn quốc tế để hỗ trợ người lao động được tham gia các thị trường lao động trong và ngoài nước; xây dựng các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường lao động đặc thù, nhất là cho phát triển thị trường lao động nông thôn, phát triển lao động làm công ăn lương trong khu vực kinh tế tư nhân và phát triển thị trường lao động trình độ cao.

XM/Báo Tin tức

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/kinh-te/tao-lap-nguon-cung-lao-dong-hien-dai-voi-chat-luong-nhan-luc-cao-20220917123521680.htm