Tạo nền tảng vững chắc cho an ninh năng lượng trong giai đoạn mới
Nghị quyết về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia 2026-2030 mở ra hành lang ổn định, tạo nền tảng vững chắc cho an ninh năng lượng và chuyển dịch xanh.
Mở đường bảo đảm an ninh năng lượng
Quốc hội vừa thông qua Nghị quyết về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030, với nhiều điểm mới được đánh giá là tạo bước đột phá quan trọng cho bảo đảm an ninh năng lượng trong bối cảnh nhu cầu điện tăng nhanh và quá trình chuyển dịch xanh diễn ra mạnh mẽ.
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, TS. Trần Minh Chính, Trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh (Bộ Công Thương) cho biết, Nghị quyết mới ban hành thể hiện bước chuyển quan trọng về tư duy thể chế trong lĩnh vực năng lượng, với nhiều điểm đổi mới mang tính nền tảng, tạo động lực mới cho bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong bối cảnh nhu cầu điện tiếp tục tăng nhanh, cơ cấu nguồn điện chuyển dịch mạnh và yêu cầu giảm phát thải ngày càng rõ nét.

Nghị quyết mới của Quốc hội tạo nền tảng pháp lý quan trọng, tháo gỡ điểm nghẽn và mở đường bảo đảm an ninh năng lượng trong bối cảnh nhu cầu điện tăng nhanh. Ảnh minh họa
Trước hết, điểm nổi bật có tính mở khóa của Nghị quyết nằm ở cơ chế điều chỉnh và cập nhật quy hoạch điện theo hướng linh hoạt hơn. Theo TS. Trần Minh Chính, Nghị quyết cho phép xử lý kịp thời các vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai Quy hoạch điện VIII, như thay thế các dự án chậm tiến độ, bổ sung hệ thống pin lưu trữ (BESS) nhằm nâng cao khả năng vận hành hệ thống, điều chỉnh tên gọi, quy mô hoặc tiến độ dự án mà vẫn giữ nguyên mục tiêu, định hướng lớn. Đáng chú ý, các điều chỉnh này không phải thực hiện lại báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, qua đó rút ngắn đáng kể thời gian chuẩn bị đầu tư và khắc phục tình trạng nguồn điện có nhưng chưa kịp lên quy hoạch.
Từ nền tảng đó, Nghị quyết tạo bước cải cách rõ rệt đối với phát triển lưới điện, lĩnh vực lâu nay được xem là điểm nghẽn của hệ thống điện. Các dự án lưới điện đã được xác định trong quy hoạch không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư; các thủ tục liên quan đến đất đai, giao khu vực biển hay chuyển mục đích sử dụng rừng được triển khai trực tiếp trên cơ sở quyết định quy hoạch hoặc kết quả đấu thầu. TS. Trần Minh Chính cho rằng, đây là thay đổi có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, giúp đẩy nhanh tiến độ đầu tư truyền tải và phân phối, từ đó giải tỏa công suất các nguồn điện mới.
Ngoài ra, với cải cách về hạ tầng, Nghị quyết cũng mở rộng không gian cho thị trường điện vận hành theo cơ chế cạnh tranh. Việc cho phép các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao và khu đô thị tham gia trực tiếp cơ chế mua bán điện với nhà sản xuất được xem là bước đi phù hợp với xu hướng quốc tế. Theo TS. Trần Minh Chính, cơ chế này không chỉ tạo thêm lựa chọn cho khách hàng sử dụng điện lớn mà còn thúc đẩy năng lượng tái tạo phát triển theo tín hiệu thị trường, từng bước hình thành mô hình điện đi theo nhu cầu thực.
Ở chiều nguồn điện dài hạn, Nghị quyết thể hiện tầm nhìn chiến lược đối với điện gió ngoài khơi và điện hạt nhân mô đun nhỏ. TS. Trần Minh Chính đánh giá, việc thiết kế cơ chế đặc thù cho điện gió ngoài khơi, cho phép Thủ tướng chấp thuận nhà đầu tư không qua đấu giá đối với các dự án đã có trong quy hoạch và đáp ứng yêu cầu về quốc phòng, an ninh, giúp tăng tính chủ động và rút ngắn thời gian chuẩn bị dự án. Cùng với đó, việc khuyến khích nghiên cứu và phát triển điện hạt nhân mô đun nhỏ mở ra hướng tiếp cận công nghệ mới, an toàn hơn và khả thi hơn về kinh tế trong dài hạn.
Bên cạnh các nguồn năng lượng mới, Nghị quyết vẫn dành dư địa chính sách cần thiết cho các dự án dầu khí và than quan trọng, cấp bách. Việc miễn thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các dự án này, theo TS. Trần Minh Chính, nhằm bảo đảm nguồn cung nhiên liệu ổn định cho hệ thống điện hiện hữu trong giai đoạn chuyển dịch, tránh những cú sốc về cung ứng khi tỷ trọng năng lượng tái tạo ngày càng lớn.
“Nghị quyết cho thấy một bước tiến đáng kể về thể chế, vừa tháo gỡ điểm nghẽn trước mắt, vừa tạo hành lang ổn định cho phát triển năng lượng trong trung và dài hạn, qua đó củng cố nền tảng an ninh năng lượng quốc gia”, TS. Trần Minh Chính nhận định.
Cụ thể hóa Nghị quyết 70
Cũng chia sẻ với phóng viên, PGS.TS. Trần Lê Hưng, Đại học Gustave Eiffel (Pháp) cho rằng, điểm đáng chú ý nhất của Nghị quyết Quốc hội vừa thông qua không chỉ nằm ở từng chính sách cụ thể, mà ở chỗ đã chuyển hóa tinh thần của Nghị quyết 70-NQ/TW của Bộ Chính trị thành những công cụ pháp lý đủ mạnh để tổ chức thực hiện.

PGS.TS. Trần Lê Hưng, Đại học Gustave Eiffel. Ảnh: NVCC
“Nghị quyết 70 đặt ra những yêu cầu mang tính tư tưởng và định hướng chiến lược, như phát triển năng lượng đồng bộ, bền vững và tự chủ; ưu tiên năng lượng tái tạo; hiện đại hóa lưới điện; hình thành thị trường năng lượng cạnh tranh; đồng thời gắn phát triển năng lượng với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Vấn đề cốt lõi là làm thế nào để những định hướng đó đi vào cuộc sống. Nghị quyết của Quốc hội lần này, chính là câu trả lời rõ ràng cho yêu cầu đó”, PGS.TS. Trần Lê Hưng bày tỏ.
Trước hết, tinh thần quy hoạch phải đi trước một bước của Nghị quyết 70 được cụ thể hóa bằng việc trao cho hệ thống pháp luật khả năng tự điều chỉnh. Cơ chế cập nhật và điều chỉnh quy hoạch điện theo hướng linh hoạt giúp xử lý kịp thời các vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai, đồng thời tạo điều kiện để ưu tiên đầu tư hạ tầng lưới điện. Theo PGS.TS. Trần Lê Hưng, đây là cách tiếp cận thực chất, giúp quy hoạch không bị đóng khung trên giấy mà có thể vận hành cùng nhịp với thực tiễn phát triển.
Cũng theo PGS.TS. Trần Lê Hưng, từ nền tảng đó, Nghị quyết chuyển hóa định hướng phát triển năng lượng tái tạo thành các quy định có tính ràng buộc và khả thi cao, đặc biệt đối với điện gió ngoài khơi. Việc dành các điều khoản riêng để quy định cơ chế chấp thuận chủ trương đầu tư, giá điện, điểm gom công suất và trách nhiệm phối hợp của các chủ thể liên quan cho thấy Quốc hội đã đi sâu vào khâu tổ chức thực hiện, thay vì chỉ dừng ở chủ trương chung. Đây là bước tiến quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia có vị thế trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.
Ở tầm nhìn dài hạn, tinh thần đa dạng hóa các loại hình năng lượng mới của Nghị quyết 70 được thể hiện thông qua việc mở đường cho nghiên cứu và phát triển điện hạt nhân mô đun nhỏ. PGS.TS. Trần Lê Hưng đánh giá, cách tiếp cận này vừa thận trọng, vừa chủ động, cho phép Việt Nam chuẩn bị các phương án công nghệ phù hợp trong bối cảnh nhu cầu năng lượng tăng cao và yêu cầu giảm phát thải ngày càng khắt khe.
“Không chỉ tập trung vào nguồn điện, Nghị quyết của Quốc hội còn cụ thể hóa tư tưởng xây dựng thị trường năng lượng cạnh tranh. Việc mở rộng cơ chế mua bán điện trực tiếp cho nhiều nhóm đối tượng sử dụng điện lớn tạo ra động lực thị trường rõ nét hơn, giảm dần vai trò bao cấp trong mua bán điện và tạo không gian cho các nguồn năng lượng mới phát triển theo tín hiệu cung cầu. Đây là bước đi cần thiết để thị trường điện Việt Nam tiệm cận thông lệ quốc tế”, PGS.TS. Trần Lê Hưng tin tưởng.
Bên cạnh đó, yếu tố bảo đảm an ninh năng lượng gắn với an ninh quốc phòng, vốn là yêu cầu xuyên suốt của Nghị quyết 70, được lồng ghép nhất quán trong các quy định về điện gió ngoài khơi cũng như các cơ chế đặc thù dành cho dự án dầu khí và than quan trọng, cấp bách. Điều này, giúp hệ thống năng lượng vừa phát triển, vừa giữ được tính ổn định và chủ động trong mọi kịch bản. Nghị quyết này cho thấy sự chuyển động rõ rệt từ tư duy định hướng sang tư duy hành động, qua đó tạo nền tảng pháp lý quan trọng để tái cấu trúc ngành năng lượng theo hướng hiện đại, bền vững và tự chủ.
Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030 là bước chuyển tiếp quan trọng, tạo năng lực định chế mạnh mẽ để giải quyết một số điểm nghẽn lớn trong ngành năng lượng, trong khi các luật, nghị định liên quan đang trong quá trình được cập nhật, sửa đổi.











