Ô nhiễm môi trường đất - thách thức thầm lặng
Ô nhiễm môi trường đất là một thách thức thầm lặng trong bối cảnh hiện nay. Vấn đề này không cấp bách tức thời như ô nhiễm môi trường không khí hay môi trường nước, nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến phát triển nông nghiệp bền vững, an ninh lương thực, hệ sinh thái và đặc biệt là sức khỏe con người.

Bãi rác Bình Tú, phường Tiến Thành, tỉnh Lâm Đồng. (Ảnh THANH HẢI)
“Sức khỏe” của môi trường đất đang bị đe dọa
Đất không đơn thuần là nền tảng của sự sống mà là tài nguyên quý giá của đất nước. Tuy nhiên, trước áp lực của gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa và phát triển công nghiệp, “sức khỏe” của môi trường đất đang bị đe dọa nghiêm trọng.
Đây là chia sẻ của Tiến sĩ Lê Thanh Kim, Phó Tổng Biên tập Báo Đại biểu nhân dân, tại tọa đàm “Kiểm soát ô nhiễm môi trường đất - Thực trạng và giải pháp” diễn ra chiều 22/12 tại Hà Nội.

Quang cảnh tọa đàm. (Ảnh Ban tổ chức)
Khác với các loại hình ô nhiễm khác, ô nhiễm đất có tính chất tích tụ tiềm tàng. Có những vùng đất phải trải qua nhiều năm tích tụ độc chất từ nước thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt bừa bãi và sự lạm dụng hóa chất trong nông nghiệp mới phát sinh sự thay đổi chất lượng đất. Mối nguy hại này không đến ngay lập tức mà "ngấm dần" vào chuỗi thức ăn, vào nguồn nước ngầm và cuối cùng là ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Khi môi trường đất bị ô nhiễm, hệ sinh thái bị phá hủy, đa dạng sinh học suy giảm, và việc phục hồi đất sẽ là gánh nặng khổng lồ về kinh tế.
“Chúng ta thường có xu hướng phản ứng tức thì với những hiện tượng có thể nhìn thấy, cảm nhận được ngay như khói bụi trong không khí, sự đổi màu của nguồn nước hay tiếng ồn đô thị. Thế nhưng, có một loại ô nhiễm âm thầm hơn, bền bỉ hơn nhưng hệ lụy lại vô cùng khốc liệt - đó chính là ô nhiễm môi trường đất”, Tiến sĩ Lê Thanh Kim nói.
Khi môi trường đất bị ô nhiễm, hệ sinh thái bị phá hủy, đa dạng sinh học suy giảm, và việc phục hồi đất sẽ là gánh nặng khổng lồ về kinh tế.
Tọa đàm lần này có sự tham gia của các đại biểu Quốc hội, nhà quản lý, chuyên gia và doanh nghiệp, nhằm thảo luận về những giải pháp toàn diện, đồng bộ để nâng cao hiệu quả quản lý môi trường đất.
Tiến sĩ Lê Thanh Kim nhấn mạnh, cần phải coi nội dung phục hồi đất, chống thoái hóa đất là một phần không thể tách rời của kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, là nhiệm vụ quan trọng của quá trình phát triển bền vững.
Ô nhiễm môi trường đất - một thách thức thầm lặng
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Tạ Đình Thi nhận định, ô nhiễm môi trường đất là một thách thức có tính chất thầm lặng. Nó không cấp bách tức thời như ô nhiễm môi trường không khí hay môi trường nước, nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến phát triển nông nghiệp bền vững, an ninh lương thực, hệ sinh thái và đặc biệt là sức khỏe con người.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Tạ Đình Thi. (Ảnh Ban tổ chức)
Ông Tạ Đình Thi cho biết, vừa qua, Quốc hội đã tiến hành đợt giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”. Từ cuộc giám sát này, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 247/2025/QH15 vào ngày 10/12/2025, nhấn mạnh việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật trong lĩnh vực này, trong đó có bảo vệ môi trường đất.
Về hành lang pháp lý, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Tạ Đình Thi cho biết, hệ thống luật pháp liên quan đến bảo vệ môi trường đất đã được xây dựng khá toàn diện. Luật Bảo vệ môi trường 2020 dành riêng Mục 3 với 5 điều quy định về bảo vệ môi trường đất. Luật Đất đai có nhiều điều khoản liên quan đến nguyên tắc sử dụng đất, bảo vệ đất thích ứng biến đổi khí hậu, hạn chế lạm dụng hóa chất gây thoái hóa đất. Luật Trồng trọt cũng quy định cụ thể về sử dụng và bảo vệ đất trong canh tác.
Ngoài ra, các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường đất, coi đây là một phần không thể tách rời trong chiến lược phát triển bền vững.
Tuy nhiên, ông Tạ Đình Thi cho rằng, việc triển khai trên thực tế vẫn còn nhiều hạn chế. Công tác quan trắc môi trường đất chưa đầy đủ, số liệu còn khiêm tốn, phụ thuộc vào công tác điều tra cơ bản. Bản đồ điều tra đánh giá, phân loại, quy hoạch việc quản lý sử dụng đất gắn với chất lượng sức khỏe đất còn hạn chế.
Bên cạnh đó, nhận thức cộng đồng về tác hại của ô nhiễm đất còn thấp, trong khi các vấn đề môi trường khác như không khí, nước thường được chú ý nhiều hơn. Nguồn lực đầu tư cho bảo vệ môi trường đất chưa được huy động hiệu quả, các quy định về trách nhiệm của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trong bảo vệ đất chưa được cụ thể hóa, thực hiện đầy đủ.
Ông Tạ Đình Thi nêu rõ, cần có giải pháp mang tính chất bảo đảm hiệu lực hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, bảo vệ môi trường đất.
Đồng thời, việc hoàn thiện hành lang pháp lý là hết sức cần thiết, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi yêu cầu phát triển đã thay đổi nhiều so với trước đây. Các chính sách không chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ô nhiễm đất tồn tại từ trước mà quan trọng hơn là phải ngăn chặn xu thế ô nhiễm tiếp tục diễn ra.
Đây là những vấn đề mang tính khẩn trương và cấp bách. Vì vậy, cần đầu tư mạnh mẽ để xây dựng hệ thống quan trắc, giám sát, điều tra, đánh giá, phân loại và quản lý sử dụng đất một cách khoa học và hiệu quả, nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững lâu dài.
Tăng cường truyền thông về nguy cơ ô nhiễm đất
Dưới góc nhìn của một chuyên gia, ông Lê Thanh Hải, Viện trưởng Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường (Bộ Y tế) cho rằng, để thông điệp về nguy cơ ô nhiễm đất, đặc biệt là nguy cơ chuyển hóa qua chuỗi thực phẩm thực sự đi vào đời sống người dân nông thôn và tạo ra thay đổi hành vi, cần tiếp cận theo một số nguyên tắc then chốt sau đây.

Viện trưởng Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường, Bộ Y tế, Lê Thanh Hải. (Ảnh Ban tổ chức)
Thứ nhất, thông điệp truyền thông phải xuất phát từ những gì người dân nhìn thấy, ăn uống và cảm nhận hằng ngày, thay vì các khái niệm khoa học trừu tượng. Chúng ta không nên nói nhiều đến “kim loại nặng” hay “tích lũy sinh học”, mà cần chuyển thành những cảnh báo rất cụ thể, dễ hiểu như: “Đất bẩn thì rau sẽ bẩn”, “Bụi đất ngoài ruộng có thể khiến trẻ em hay ho, khó thở”, hay “Lạm dụng thuốc trừ sâu hôm nay có thể ảnh hưởng đến sức khỏe con cháu sau này”. Khi người dân thấy rõ mối liên hệ trực tiếp giữa đất - bữa ăn - sức khỏe gia đình, họ mới thực sự quan tâm và thay đổi hành vi.
Thứ hai, truyền thông cần tôn trọng văn hóa và tập quán canh tác của nông thôn, tránh cách tiếp cận áp đặt hoặc quy trách nhiệm. Phần lớn người dân không cố tình làm ô nhiễm môi trường đất hay sức khỏe, mà do họ thiếu thông tin và thiếu lựa chọn thay thế. Vì vậy, mỗi thông điệp cần đi kèm giải pháp khả thi như: Hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn, đúng liều, đúng thời điểm; Thu gom và xử lý rác thải nông nghiệp; hoặc giới thiệu các mô hình canh tác thân thiện với đất đã được chính nông dân địa phương áp dụng thành công.
Thứ ba, cần lựa chọn kênh truyền thông phù hợp với trình độ tiếp cận thông tin của người dân nông thôn. Bên cạnh báo chí và mạng xã hội, các kênh truyền thống như hệ thống loa truyền thanh xã, các buổi họp thôn, sinh hoạt hội nông dân, hội phụ nữ, trạm y tế xã vẫn giữ vai trò rất quan trọng. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ y tế cơ sở và cán bộ khuyến nông cần được trang bị kiến thức để trở thành những “người truyền thông đáng tin cậy” ngay tại cộng đồng.
Thứ tư, truyền thông phải gắn với giáo dục và thay đổi hành vi lâu dài, không chỉ dừng lại ở cảnh báo nguy cơ. Nội dung bảo vệ đất và sức khỏe cần được lồng ghép vào các chương trình đào tạo nông dân, trường học nông thôn và các phong trào xây dựng nông thôn mới. Khi trẻ em được giáo dục sớm, các em sẽ trở thành cầu nối lan tỏa nhận thức đến cả gia đình.
Cuối cùng, vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng trong việc kiến tạo chính sách và hỗ trợ nguồn lực cho truyền thông cộng đồng, đồng thời tạo điều kiện để người dân có những lựa chọn an toàn hơn, từ vật tư nông nghiệp, mô hình canh tác đến tiêu thụ nông sản. Khi truyền thông đi cùng chính sách và sinh kế, người dân mới có thể và sẵn sàng thay đổi các thói quen canh tác và sinh hoạt có hại cho đất và sức khỏe.
Ông Hải nhấn mạnh, truyền thông hiệu quả về nguy cơ ô nhiễm đất đối với người dân nông thôn phải là truyền thông gần dân, nói đúng ngôn ngữ của người dân, gắn với lợi ích sức khỏe và sinh kế, và được duy trì bền bỉ trong một hệ thống chính sách đồng bộ.
Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/o-nhiem-moi-truong-dat-thach-thuc-tham-lang-post932219.html











