Tàu chiến, máy bay, tên lửa Thổ Nhĩ Kỳ tiến sang thị trường Đông Nam Á
Sự nở rộ các hợp đồng vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ với các quốc gia Đông Nam Á quy tụ nhiều yếu tố.
Với một loạt hợp đồng cung cấp cho Indonesia, Malaysia và Philippines nhiều loại vũ khí khác nhau trong những năm qua, Thổ Nhĩ Kỳ đang trở thành nhà xuất khẩu mới trong lĩnh vực quốc phòng tại Đông Nam Á, kênh Channel News Asia hôm 18-9 nhận định.
Hàng loạt "lần đầu tiên" của vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ ở Đông Nam Á
Tháng 8, Indonesia đã trở thành khách hàng quốc tế đầu tiên xác nhận được bàn giao tên lửa đạn đạo chiến thuật KHAN do công ty quốc phòng Roketsan (Thổ Nhĩ Kỳ) sản xuất.
Thương vụ xuất khẩu tên lửa KHAN là hợp đồng nổi bật nhất trong loạt thỏa thuận mà các công ty quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ ký từ năm 2022 với đối tác Indonesia, cung cấp nhiều loại tên lửa, tàu chiến và các hệ thống phòng không do Ankara phát triển.

Tên lửa đạn đạo chiến thuật KHAN do Roketsan (Thổ Nhĩ Kỳ) sản xuất đã gia nhập biên chế quân đội Indonesia vào đầu tháng 8. Ảnh: FACEBOOK/ASEAN Defense Studies
Tập đoàn Công nghiệp Hàng không vũ trụ Thổ Nhĩ Kỳ (TAI) hồi cuối tháng 7 thông báo đã ký hợp đồng bán 48 máy bay phản lực KAAN cho Indonesia, trở thành thương vụ xuất khẩu vũ khí lớn nhất từ trước tới nay của Thổ Nhĩ Kỳ.
Trước đó, tại triển lãm quốc phòng Indo Defence 2025 (Indonesia) hồi đầu tháng 6, các công ty công nghiệp quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ cũng ký kết nhiều thỏa thuận với các đối tác nước chủ nhà như hợp đồng xuất khẩu nhiều loại vũ khí của Roketsan và dự án hợp tác “bảo vệ các cơ sở hải quân quan trọng” của Indonesia do công ty Thổ Nhĩ Kỳ Armelsan (chuyên về sonar thủy âm và các phương tiện không người lái dưới nước) đảm nhận.
Hồi tháng 2, công ty máy bay không người lái (UAV) Baykar đã ký thỏa thuận liên doanh với công ty quốc phòng Republikorp (Indonesia) về thành lập một cơ sở sản xuất UAV ở Indonesia, mở ra cơ hội đồng sản xuất các loại UAV tiên tiến như Bayraktar TB3 và Bayraktar Akinci ngay tại Đông Nam Á.
Trước đó, Philippines trở thành quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á tiếp nhận vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ. Trong giai đoạn 2022-2024, Manila đã tiếp nhận 6 trực thăng tấn công T129 ATAK do TAI xuất khẩu theo hợp đồng được ký năm 2020.
Công ty quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ FNSS (chuyên về sản xuất các loại xe quân sự) cùng năm 2020 đã ký hợp đồng bán cho Philippines 6 xe công binh bọc thép Kunduz. Manila dự kiến nhận hàng vào năm 2023, song chưa có thông tin công khai về việc thực hiện hợp đồng này.

Philippines hồi tháng 5-2024 tiếp nhận 2 chiếc cuối cùng trong hợp đồng mua 6 trực thăng T129 ATAK từ TAI (Thổ Nhĩ Kỳ). Ảnh: Armed Forces of the Philippines/X
Trong khi đó, Malaysia hồi tháng 7 cho biết quân đội nước này đang trong giai đoạn huấn luyện làm quen với UAV ANKA-S do tập đoàn TAI sản xuất và dự kiến quân đội nước này sẽ biên chế loại UAV này vào tháng 3-2026.
Cũng trong tháng 7, công ty quốc phòng Deftech (Malaysia) đã ký hợp đồng với Katmerciler (Thổ Nhĩ Kỳ) về hợp tác sản xuất xe bọc thép EREN 4x4 phục vụ thị trường Malaysia, với tầm nhìn xuất khẩu ra khu vực Đông Nam Á.
Ngoài ra, Ankara và Kuala Lumpur cũng đang tiến hành các hợp đồng đóng mới tàu chiến ven bờ cho Hải quân Malaysia, hỗ trợ nâng cấp xe bọc thép Tarantula HMAV (vốn do Malaysia phát triển trong nước từ năm 2013) và cung cấp tên lửa chống tăng Karaok (do Roketsan sản xuất).
Vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ gặt "quả ngọt" nhờ tổng hòa nhiều yếu tố
Lý giải sự nở rộ của các hợp đồng vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ với các quốc gia Đông Nam Á, Channel News Asia chỉ ra nhiều yếu tố hội tụ. Các yếu tố này gồm giá cả cạnh tranh, các điều khoản đi kèm trong hợp đồng có lợi cho nước nhập khẩu như chuyển giao công nghệ, hợp tác sản xuất, trong khi bản thân các khách hàng như Ankara cũng đang nỗ lực mở rộng thị trường vũ khí.
Ngành công nghiệp vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ đã phát triển bùng nổ trong thập niên qua với kim ngạch xuất khẩu tăng vọt từ 1,6 tỉ USD (2013) lên 7,2 tỉ USD (2024). Ankara cũng đặt mục tiêu trở thành một cường quốc quốc phòng toàn cầu và đối tác quan trọng cho các quốc gia muốn đa dạng hóa nguồn cung vũ khí trên cơ sở bình đẳng.

Tiêm kích KAAN do TAI (Thổ Nhĩ Kỳ) phát triển trong một buổi thử nghiệm tại Ankara (Thổ Nhĩ Kỳ) hồi cuối tháng 2. Ảnh: Türk Havacılık Uzay Sanayii (TAI)/X
Trong khi đó, các quốc gia Đông Nam Á đều có vị trí quan trọng, nằm gần trục hàng hải chiến lược qua eo biển Malacca, Biển Đông hướng về Đông Bắc Á. Do đó, các nước này nhận thấy nhu cầu hiện đại hóa, đa dạng hóa chiến lược và thúc đẩy tự chủ công nghệ quốc phòng.
PGS Murat Yas đến từ ĐH Marmara (Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ) cho rằng các công ty quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ đề xuất nhiều ưu đãi cho các khách hàng Đông Nam Á, trong đó “tính linh hoạt – sẵn sàng nội địa hóa sản xuất, tích hợp công nghệ và thiết kế các gói sản phẩm – là điểm tạo nên sự khác biệt”, theo kênh TRT World.
Nghiên cứu viên tại Chương trình Đông Nam Á (ĐH Lowy, Úc) Abdul Rahman Yaakob lưu ý rằng các nước như Indonesia, Malaysia có ngân sách quốc phòng hạn chế, trong khi vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ rẻ hơn đáng kể so với các hệ thống cùng loại của Mỹ hoặc châu Âu, theo Channel News Asia.
Các công ty quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ cũng thường xuyên tham gia các triển lãm quốc phòng tại Malaysia và Indonesia – nơi họ có cơ hội tiếp xúc với nhiều phái đoàn Đông Nam Á, theo nhà nghiên cứu Jamil Ghani tại trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam (Singapore).
Ngoài ra, Thổ Nhĩ Kỳ và Đông Nam Á có điểm tương đồng khi “cả hai bên đều hướng tới một trật tự quốc tế cân bằng hơn, một hệ thống quản trị toàn cầu toàn diện hơn” - TS Altay Atli đến từ ĐHKoc (Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ) chia sẻ với TRT World.
Ông Atli bổ sung rằng trong chính sách khu vực của mình, cả Indonesia, Malaysia và Philippines có thể dễ dàng tìm thấy sự đồng cảm với định hướng theo đuổi quyền tự chủ chiến lược mà chính Ankara đang theo đuổi trong không gian châu Âu-Đại Tây Dương mà Thổ Nhĩ Kỳ là một thành viên.
Hoạt động của các gian hàng vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ tại Triển lãm và Hội nghị Dịch vụ quốc phòng châu Á (DSA) năm 2022 tại Malaysia. Nguồn: Türk Havacılık Uzay Sanayii (TAI)/X
Tuy nhiên, cả Channel News Asia cũng chỉ ra các thách thức đối với hợp tác quốc phòng giữa Đông Nam Á với Thổ Nhĩ Kỳ.
Đầu tiên là những rào cản trong việc tích hợp, hiệp đồng tác chiến giữa các hệ thống vũ khí mới từ Thổ Nhĩ Kỳ với các trang bị sẵn có vốn có nguồn gốc từ Mỹ và phương Tây hay Nga, Trung Quốc.
Hoạt động hậu cần, bảo trì trang bị thuộc một hệ vũ khí mới cũng có thể đặt ra nhiều thách thức về chi phí và kỹ thuật cho các quốc gia nhập khẩu.
Ngoài ra, thực tế rằng nhiều linh kiện quan trọng trong các hệ thống vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ vẫn phải nhập khẩu hoặc phụ thuộc vào Mỹ và châu Âu đặt ra câu hỏi về năng lực của Ankara đảm bảo nguồn cung linh kiện trong quá trình sản xuất xuất khẩu và hợp tác sản xuất.