Thẩm quyền của BĐBP về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng

Lực lượng BĐBP có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng. Trong đó, có 3 nhóm chức danh thuộc lực lượng BĐBP được quy định cụ thể về thẩm quyền xử phạt đối với hành vi này trong Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15.

Cán bộ Đồn Biên phòng cửa khẩu cảng Sa Kỳ, BĐBP Quảng Ngãi công bố và giao quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chỉ huy trưởng BĐBP Quảng Ngãi đối với thuyền trưởng Dương Thanh Tịnh, ở tỉnh Quảng Ngãi vì vi phạm quy định của pháp luật trong lĩnh vực thủy sản. Ảnh: Văn Tánh

Cán bộ Đồn Biên phòng cửa khẩu cảng Sa Kỳ, BĐBP Quảng Ngãi công bố và giao quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chỉ huy trưởng BĐBP Quảng Ngãi đối với thuyền trưởng Dương Thanh Tịnh, ở tỉnh Quảng Ngãi vì vi phạm quy định của pháp luật trong lĩnh vực thủy sản. Ảnh: Văn Tánh

Ngày 18/8/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15 quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/9/2022. Pháp lệnh này quy định về hành vi cản trở hoạt động tố tụng bị xử phạt vi phạm hành chính; hình thức, mức xử phạt; biện pháp khắc phục hậu quả; biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính; thẩm quyền, thủ tục xử phạt, thi hành quyết định xử phạt và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng.

Giải thích về hành vi cản trở hoạt động tố tụng, Pháp lệnh nêu rõ: Hành vi cản trở hoạt động tố tụng bị xử phạt vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, cản trở hoạt động giải quyết vụ án, vụ việc của cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính mà không phải là tội phạm và theo quy định của Pháp lệnh này phải bị xử phạt vi phạm hành chính. Hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, cản trở hoạt động giải quyết vụ việc của cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Pháp lệnh Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân và Pháp lệnh Trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà không phải là tội phạm thì bị áp dụng xử phạt vi phạm hành chính như hành vi cản trở hoạt động tố tụng theo quy định của Pháp lệnh này.

Trên cơ sở thẩm quyền chung của BĐBP được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan, Pháp lệnh này xác định rõ thẩm quyền xử phạt của BĐBP đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra của cơ quan, người có thẩm quyền trong BĐBP. Cụ thể:

Thứ nhất, thẩm quyền xử phạt của Đồn trưởng Đồn Biên phòng, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Biên phòng cửa khẩu cảng: Các chức danh này có quyền phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 8.000.000 đồng; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá 2 lần mức tiền phạt nêu trên (không vượt quá 16.000.000 đồng); áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, bao gồm: Buộc thu hồi thông tin, tài liệu, dữ liệu, vật có chứa bí mật điều tra; buộc gỡ bỏ thông tin, tài liệu, dữ liệu có chứa bí mật điều tra.

Các hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử phạt của nhóm chức danh này được liệt kê trong Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15, bao gồm: (1) Hành vi cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật (khoản 1, Điều 9); (2) người tham gia tố tụng tiết lộ bí mật điều tra mặc dù đã được Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên hoặc Kiểm tra viên yêu cầu phải giữ bí mật, trừ trường hợp luật sư thực hiện hành vi này (khoản 1, Điều 10); (3) hành vi vi phạm quy định về sự có mặt theo giấy triệu tập (người tham gia tố tụng đã được triệu tập mà vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho hoạt động tố tụng) (Điều 11); (4) hành vi cản trở đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân tham gia tố tụng (người tham gia tố tụng lừa dối, đe dọa, mua chuộc hoặc sử dụng vũ lực nhằm cản trở đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân tham gia tố tụng) (Điều 12); (5) người tham gia tố tụng khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật, trừ người bị buộc tội; người tham gia tố tụng từ chối khai báo hoặc từ chối thực hiện nghĩa vụ cung cấp tài liệu, đồ vật, trừ người bị buộc tội (khoản 1, Điều 13); người tham gia tố tụng làm giả hoặc hủy hoại chứng cứ gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án, vụ việc (khoản 2, Điều 13); (6) hành vi ngăn cản việc cấp, giao, nhận, thông báo hoặc không thực hiện trách nhiệm cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết, thông báo văn bản tố tụng (người được giao trách nhiệm cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; người tham gia tố tụng ngăn cản việc cấp, giao, nhận hoặc thông báo văn bản tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng) (Điều 14); (7) người tham gia tố tụng xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, trừ trường hợp luật sư thực hiện hành vi này (khoản 1, Điều 15).

Thứ hai, thẩm quyền xử phạt của Đoàn trưởng Đoàn Đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm thuộc Cục Phòng, chống ma túy và tội phạm BĐBP: Các chức danh này có quyền phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 20.000.000 đồng; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá 02 lần mức tiền phạt nêu trên (không vượt quá 40.000.000 đồng); áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, bao gồm: Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi cản trở hoạt động tố tụng; buộc thu hồi thông tin, tài liệu, dữ liệu, vật có chứa bí mật điều tra; buộc gỡ bỏ thông tin, tài liệu, dữ liệu có chứa bí mật điều tra.

Các hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử phạt của nhóm chức danh này được liệt kê trong Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15, bao gồm: Các hành vi đã được nêu trong thẩm quyền xử phạt của Đồn trưởng Đồn Biên phòng, Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy Biên phòng cửa khẩu cảng; đồng thời, bổ sung các hành vi: (1) Cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, người có thẩm quyền; lôi kéo, xúi giục, lừa dối, mua chuộc, đe dọa hoặc sử dụng vũ lực buộc người khác tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật (trừ trường hợp hành vi này do luật sư thực hiện) (khoản 2, Điều 9); (2) người tham gia tố tụng tiết lộ bí mật điều tra làm trì hoãn, kéo dài thời gian điều tra mặc dù đã được Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên hoặc Kiểm tra viên yêu cầu phải giữ bí mật, trừ trường hợp luật sư thực hiện hành vi này; luật sư thực hiện hành vi tiết lộ bí mật điều tra mặc dù đã được Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên hoặc Kiểm tra viên yêu cầu phải giữ bí mật (khoản 2, Điều 10); (3) người tham gia tố tụng lừa dối, đe dọa, mua chuộc hoặc sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người bị hại tham gia tố tụng hoặc buộc người bị hại khai báo gian dối, trừ trường hợp luật sư thực hiện hành vi này; người tham gia tố tụng lừa dối, đe dọa, mua chuộc hoặc sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người làm chứng ra làm chứng hoặc buộc người khác ra làm chứng gian dối, trừ trường hợp luật sư thực hiện hành vi này; người giám định, người định giá tài sản từ chối kết luận giám định, định giá tài sản mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan (khoản 3, Điều 13); (4) người tham gia tố tụng đe dọa, sử dụng vũ lực hoặc có hành vi khác xâm hại sức khỏe của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (trừ trường hợp hành vi này do luật sư thực hiện) (khoản 2, Điều 15).

Thứ ba, thẩm quyền xử phạt của Chỉ huy trưởng BĐBP cấp tỉnh, Cục trưởng Cục Phòng, chống ma túy và tội phạm BĐBP: Các chức danh này có quyền phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 40.000.000 đồng; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, bao gồm: Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi cản trở hoạt động tố tụng; buộc thu hồi thông tin, tài liệu, dữ liệu, vật có chứa bí mật điều tra; buộc gỡ bỏ thông tin, tài liệu, dữ liệu có chứa bí mật điều tra.

Các hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử phạt của nhóm chức danh này được liệt kê trong Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15, bao gồm: Các hành vi đã được nêu trong thẩm quyền xử phạt của Đoàn trưởng Đoàn Đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm thuộc Cục Phòng, chống ma túy và tội phạm thuộc Bộ Tư lệnh BĐBP; đồng thời, bổ sung các hành vi:

(1) Hành vi tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật do luật sư thực hiện, cụ thể: Luật sư cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, người có thẩm quyền; lôi kéo, xúi giục, lừa dối, mua chuộc, đe dọa hoặc sử dụng vũ lực buộc người khác tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật (khoản 3, Điều 9);

(2) hành vi tiết lộ bí mật điều tra do luật sư thực hiện, cụ thể: Luật sư tiết lộ bí mật điều tra làm trì hoãn, kéo dài thời gian điều tra mặc dù đã được Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên hoặc Kiểm tra viên yêu cầu phải giữ bí mật (khoản 3, Điều 10);

(3) hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ, cụ thể: Người tham gia tố tụng lừa dối, đe dọa, mua chuộc hoặc sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người phiên dịch, người dịch thuật thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người phiên dịch, người dịch thuật dịch gian dối; người tham gia tố tụng lừa dối, đe dọa, mua chuộc hoặc sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người giám định, người định giá tài sản thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người giám định, người định giá tài sản kết luận sai với sự thật khách quan; người giám định, người định giá tài sản kết luận gian dối; luật sư lừa dối, đe dọa, mua chuộc hoặc sử dụng vũ lực buộc người bị hại khai báo gian dối hoặc buộc người khác ra làm chứng gian dối (khoản 4, khoản 5, Điều 13);

(4) hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, xâm hại sức khỏe của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng do luật sư thực hiện, cụ thể: Luật sư xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (trường hợp hành vi vi phạm của luật sư đến mức phải áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam có thời hạn theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì việc xử phạt được áp dụng theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp); luật sư đe dọa, sử dụng vũ lực hoặc có hành vi khác xâm hại sức khỏe của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (khoản 3, khoản 4, Điều 15).

Ngoài ra, trong Pháp lệnh này còn quy định về thủ tục xử phạt, chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, thi hành quyết định xử phạt, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính...

Thượng tá Phạm Thị Thanh Huế (Học viện Biên phòng)

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/tham-quyen-cua-bdbp-ve-xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-doi-voi-hanh-vi-can-tro-hoat-dong-to-tung-post478894.html