Thăng Long - Hà Nội, nơi hội tụ nghệ thuật dân tộc
Thăng Long - Hà Nội là nơi hội tụ bản sắc của dân tứ xứ Đông, Đoài, Nam, Bắc. Vì thế, đất này cũng là nơi tập trung ẩm thực và các hình thức ca vũ, diễn xướng, múa rối. Có khác chăng, khi đã lai kinh thì nghệ thuật được nâng tầm để phù hợp với gu thẩm mỹ của thị dân.
Song hành với nghệ thuật cung đình
Thời Lý, kinh đô Thăng Long có đời sống nghệ thuật vô cùng phong phú, sách “Đại Việt sử lược” chép: “Lý Nhân Tông đặc biệt giỏi về âm luật, những ca khúc nhạc mà các nhạc công luyện tập đều do ông sáng tác”. Vị vua này đã viết nhiều khúc nhạc cho cung nữ, nhạc công biểu diễn trong cung đình. Một trong những khúc hát mà sử chép lại là “Giáng vân tiên tử” ngợi ca công đức tiền vương. Không chỉ dành cho cung đình, vua Lý Nhân Tông còn rất quan tâm đến đời sống tinh thần của các con dân, ông đã mở rộng và nâng cao nghệ thuật múa rối nước và rối cạn. Ông dựng Vũ Đình (sân múa) trên xe đẩy di động diễn trong cung và ngoài thành cho quan dân cùng xem.
Trước khi bị đuổi ra khỏi cung đình, nghệ thuật chèo từng được nhà Đinh nuôi nấng bao bọc, coi đó là báu vật của nghệ thuật diễn xướng. Nghệ nhân nổi tiếng nhất mà sử đã chép là Ưu Bà Phạm Thị Chân không chỉ có tài biểu diễn mà còn được triều đình giao dạy dỗ lớp kế tiếp. Đến triều Lý, Trần, chèo vẫn là nghệ thuật biểu diễn trong cung dù thời Trần tuồng cũng đã được đưa vào diễn trong triều. Đến nhà Lê đã xây dựng bộ “Đồng Văn” và “Nhã Nhạc” với phương châm học theo mẫu triều đình Trung Hoa. Phản ứng lại với nghệ thuật ngoại lai, bên ngoài xã hội, ca vũ, diễn xướng vô cùng sôi động khiến triều đình phải lập Ty Giáo phường để coi sóc việc hoạt động của các phường hội.
Vì tính trào lộng, châm biếm thói tham lam, tàn ác của quan lại thông qua diễn xướng của ưu nhân nên chèo đã “gặp hạn”. Trong một buổi bái yến thái miếu năm 1437, vua Lê Thái Tông đã ra lệnh bãi bỏ hát chèo, đuổi ra khỏi cung đình. Chèo sinh ra từ dân, vào triều, rồi lại trở về với dân, nên bất chấp lệnh cấm ngặt nghèo, chèo vẫn được dân yêu mến tìm cách vun trồng. Từ khi rời cung đình, nhiều gánh chèo mới ra đời, họ đi diễn ở các miền quê, đặc biệt là trong các lễ hội.
Thế nhưng hát xướng ở quê chỉ được các làng nuôi ăn chứ không có tiền nên nhiều gánh hát tìm cách trở về kinh đô vì đất Kẻ Chợ giàu có và sẵn lòng bỏ tiền. Khi đã phải kiếm ăn đường phố thì các gánh hát không thể diễn những tích quá dài vì dân phố không dư thừa thời gian như ở thôn quê tháng nông nhàn. Họ phải diễn xướng những trích đoạn ngắn để thị dân dễ nhớ, dễ cười, rồi không tiếc tiền móc hầu bao thả vào nón vài xu.
Cũng từ đó sinh ra gu thưởng thức nghệ thuật thị dân. Chính gu thưởng thức thị dân ấy đã khiến các ông trùm gánh hát sáng tác ra các trích đoạn ngắn và diễn rất linh hoạt, chỗ này hát thế này, những diễn ở phố khác lại thay lời cho phù hợp. Đó cũng là để chọc cười và nếu có cơ hội là họ lôi kéo cả khán giả cùng tham gia diễn xướng.
Trong “Vũ trung tùy bút”, Phạm Đình Hổ đã viết: “Nghệ thuật dân tộc vẫn được dân yêu và “tục nhạc” ngày càng thịnh hành, trong khi nhạc ở chốn triều miếu chỉ còn là thứ om sòm, loạn bậy, không còn thành xoang gì”. Thậm chí tế giao miếu và lễ triều hạ hay chốn dân gian tế thần cũng dùng nhạc ấy. Không hiếm những con nhà gia thế cũng xao nhãng cả nghiệp quan lộ để theo đòi các nghệ sĩ chốn giáo phường dân gian.
Điều đó đã chứng minh sức sống mãnh liệt và tính hấp dẫn không thể phủ nhận của vẻ đẹp cổ nhạc đất kinh kỳ Kẻ Chợ. Nó đã thực sự chiến thắng món hàng “cung đình ngoại lai” du nhập từ Trung Hoa. Hình ảnh nghệ thuật kinh thành Thăng Long cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX hẫp dẫn là vậy.
Trong cuốn “Lịch sử tự nhiên, dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài” (Histoire naturelle civil et politicque du Tonkin) xuất bản ở Paris năm 1778, tác giả Richard, người đã sống ở kinh thành Thăng Long mấy chục năm viết: “Vào mùa xuân, từ triều đình đến các làng quê đều mở lễ hội lớn. Chính trong thời gian này, tất cả những trò vui tập trung lại ở những nơi công cộng hoặc trong nhà. Người ta thấy ở mọi nơi các loại âm thanh, nhạc cụ. Người ta dùng khán đài ở góc phố để trình diễn những vở chèo hề mua vui cho giới bình dân”.
Có một điều khá lạ là hầu hết các nghệ nhân nghệ thuật dân tộc lập nghiệp ở Thăng Long - Hà Nội đều có gốc gác từ những miền quê văn hiến. Nhưng cũng phải nói thêm rằng, nơi đây có những khán giả sành điệu. Cả hai thứ đó khiến nghệ thuật dân tộc ở kinh đô, thủ đô phát triển và hoàn thiện hơn.
Đa dạng, phong phú, phát triển mạnh trong thế kỷ XX
Khi người Pháp xâm chiếm Việt Nam, họ áp đặt cung cách quản lý mới. Từ xã hội truyền thống, Hà Nội chuyển sang xã hội hiện đại kiểu phương Tây và tạo ra tầng lớp thị dân mới. Để đáp ứng cho nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của tầng lớp thị dân này thì xẩm ra đời. Gốc gác vẫn từ các làn điệu chèo, nhưng nghệ nhân không diễn xuất mà chỉ hát. Hát cũng đơn giản hơn, không cầu kỳ, không khắt khe niêm luật như chèo.
Mới đầu, xẩm lấy các bài thơ của các nhà Nho làm lời và hát theo điệu ai oán, buồn thảm. Một nguyên nhân khiến các gánh xẩm thường chọn các bài về thân phận phụ nữ, thân phận con người vì phần lớn họ là người khiếm thị. Rồi họ nhận thấy gu thưởng thức của thị dân, những người nuôi sống họ thay đổi, nên họ nhanh chóng chuyển từ hát điệu buồn sang điệu vui tươi. Họ tự bịa ra lời hay đặt lời mới dựa theo các bài thơ cũ. Xẩm phát triển mạnh từ đầu thế kỷ XX, đánh bạt các gánh hề chèo.
Cùng với hát xẩm các giáo phường ca trù đua chân nhau ra Hà Nội lập hệ thống các nhà hát biểu diễn thính phòng. Ban đầu ở phố Hòe Nhai, sau chuyển xuống ấp Thái Hà rồi ra phố Khâm Thiên. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt lớn. Từ một thể loại hát thờ thần, thành hoàng (hát cửa đình), ca trù đã chính thức trở thành thể loại biểu diễn phục vụ nhu cầu thụ hưởng nghệ thuật đơn thuần của người Thăng Long - Hà Nội.
Cùng thời kỳ này, bên cạnh không gian truyền thống nơi sân đình, đền, hay các dinh thự, nghệ thuật tuồng, chèo bắt đầu trở lại phố mở rạp hát theo mô hình sân khấu hộp kiểu phương Tây. Một trong những người tiên phong là trùm chèo xứ Đông Nguyễn Đình Nghị. Chính ông đã gây dựng nên chèo văn minh để đáp ứng nhu cầu dân chúng Hà Nội.
Không để bị lỡ cuộc đua đưa nghệ thuật dân tộc đến Hà Nội, những năm 1920, các gánh cải lương Nam Kỳ bắt đầu hành trình “Bắc tiến” khi thường xuyên lưu diễn tại Hà Nội và nhanh chóng chiếm được sự mến mộ của khán giả chốn phồn hoa. Và chỉ ít lâu sau, nhiều thanh niên Hà Nội yêu thích nghệ thuật này đã lập nhóm cải lương không chuyên như sự chuẩn bị cho các gánh cải lương chuyên nghiệp xuất hiện.
Cũng trong nửa đầu thế kỷ XX, nghệ thuật ca Huế cũng đã được du nhập, trở thành một thú chơi của giới trí thức thượng lưu đất Hà thành. Đặt nghệ thuật dân tộc trong bối cảnh nhiều loại hình nghệ thuật phương Tây xuất hiện như kịch nói, phim, tân nhạc mới thấy sức sống của nó ở Hà Nội mạnh như thế nào. Nếu không có tình yêu của khán giả chắc chắn nó không thể phát triển.
Sau năm 1954, với lực lượng các cán bộ văn nghệ sĩ miền Nam tập kết ra Bắc, bên cạnh cải lương Nam bộ, ca Huế, người Hà Nội còn được thưởng thức thêm các loại hình nghệ thuật dân tộc khác diễn trên sân khấu và phát trên đài phát thanh như tuồng Nam, ca kịch bài chòi. Hiếm có đô thị nào ở Việt Nam mà nghệ thuật dân tộc lại phong phú và đa dạng như vậy.